I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Năm ấy, lũ chim không về làm tổ ở khu vườn.
Bà ngoại tôi ngồi ở bậc thềm, nhìn vào khoảng không hun hút trước mắt. Trời không mưa, không nắng, xám xịt một màu chì. Tôi không biết bà tôi nghĩ gì, nhưng chắc chắn là đang nghĩ. Dáng ngồi như thế, tấm lưng còn tựa vào cửa cũ, nửa như lơ đễnh, nửa như coi cánh cửa ấy là một điểm tựa. Đúng rồi, cái cánh cửa là điểm tựa của bà. Bà ngồi như thế lâu rồi, từ ngày tháng năm này qua ngày tháng năm khác. Bà tựa vào tiếng răng của lũ mọt, hình như là hoài nhớ về những ngày đã qua nhiều hơn là nghĩ đến ngày mai.
Tôi ôm con mèo cái già có bộ lông màu xám tro vào lòng, vuốt ve nó. Nó chừng như cũng đã mệt mỏi vì quãng đời có tuổi của mình mà không chờn vờn đôi bàn tay thô kệch của tôi, bộ ria mép chỉ hơi khẽ động đậy. Nó lim dim đôi mắt. Tôi thấy thái độ của nó giống bà nội tôi quá. So với lũ mèo, nó cũng có tuổi, nó cũng đã là một con mèo già. Mà già rồi thì hay mệt mỏi. Chắc lúc này ở trong tay tôi, nó cũng đang suy nghĩ, suy nghĩ theo kiểu loài mèo. Nó nghĩ gì thì chỉ có trời mới biết được (có khi loài mèo biết?). Nhưng tôi thầm nghĩ, biết đâu nó cũng như bà tôi, tức là đang hoài nhớ về cái thời đã qua thì sao?
Tuổi thơ tôi là một chuỗi những ngày tháng không tên. Cứ lặng lờ lặng lờ, chẳng có gì sôi nổi. Tôi ở với bà từ ngày còn nhỏ. Ngày xưa dì Mân cũng ở với bà, nhưng dì Mân vì lí do nào đó tác động đến mà sinh mất trí, bỏ nhà đi lâu rồi. Đi, rồi từ đấy không về. Và cũng chẳng có tin tức gì, không biết còn sống hay đã chết. Thỉnh thoảng, tôi ngây ngô nhắc đến dì như một lẽ bình thường, bà tôi lại chảy nước mắt. Ông Hân, hàng xóm nhà tôi bảo: “Bà cháu đã mất hai anh con cả trong cuộc chiến. Mất cả mẹ cháu, bây giờ lại mất cô con gái ngay giữa thời bình…” Ông Hân nói thế rồi đi về nhà.
[Lược trích: “Tôi” nhớ đến người mẹ ruột đã bỏ con lại mà đi biệt. Từ ấy, “tôi” lớn lên cùng bà. Hai bà cháu ít nói ít cười. Mấy hôm nay con mèo cái có bộ lông màu xám tro bỏ đi đâu, không thấy về nhà. Một thời gian sau, con mèo trở về, người nó to hơn và có vẻ nặng nề. Có tin của dì Mân ở một tỉnh nào đấy xa xa, ông Hân giúp bà đi tìm dì và mang về cho “tôi” con búp bê tóc vàng dì Mân gửi.]
Lần đầu tiên, tôi thấy bà tôi cười. Ông Hân phá bụi mây ngăn giữa hai nhà, tôi chạy loăng quăng như con loi choi mà ngồi chơi với em bé búp bê của mình: “Cháu sẽ gọi là ông ngoại”.
Ông Hân nghỉ tay vào thềm ngồi hút thuốc, bà tôi ngồi bên cạnh rót nước chè cho ông. Tôi nghĩ, ông Hân như cái cột lắp cánh cửa sắp rơi ra của nhà tôi, là chỗ cho bà tôi dựa.
Năm ấy tôi mười tuổi. Năm ấy con mèo cái già có bộ lông màu xám tro đẻ được ba con. Hai con khoang và một con tam thể.
Năm ấy bầy chim lại tìm về làm tổ, hót vang ở khu vườn.
(Trích Bầy chim trở về, Phạm Sông Hồng, http://scov.gov.vn/van-hoc-nghe-thuat/truyen-ngan/bay-chim-tro-ve.html,2024)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Nêu dấu hiệu xác định ngôi kể của đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra những điểm tựa của nhân vật người bà trong đoạn trích phần đọc hiểu.
Câu 3. Phân tích tác dụng của việc sử dụng điểm nhìn chính trong đoạn trích trên.
Câu 4. Cảm nhận của anh/chị về những chi tiết ở cuối văn bản: Năm ấy tôi mười tuổi. Năm ấy con mèo cái già có bộ lông màu xám tro đẻ được ba con. Hai con khoang và một con tam thể. Năm ấy bầy chim lại tìm về làm tổ, hót vang ở khu vườn.
Câu 5. Từ nội dung đoạn trích, hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất với anh/chị. Lí giải.
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về thời khắc giao mùa trong đoạn trích sau:
Cánh chim báo sang mùa
Nắng hoai hoai cuối hạ
Màu mây non lá mạ
Gió trên cành hiu hiu
Chừng như thu ngấp nghé
Trong hương cốm đâu đây
Khói lam chiều rất nhẹ
Sông vừa vơi vừa đầy
(Trích Sang mùa, Tạ Hữu Yên, in trong Thơ Việt Nam thế kỉ XX,NXB Giáo dục, 2005)
Câu 2. (4,0 điểm)
Có thể chấp nhận thất bại nhưng nhất định không được chấp nhận buông xuôi.
Từ gợi dẫn trên, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về cách ứng xử đúng đắn khi đối diện với thất bại của những người trẻ tuổi.
* GỢI Ý TRẢ LỜI:
ĐỌC HIỂU
Câu 1 – Người kể chuyện xưng “tôi” là dấu hiệu của ngôi kể thứ nhất.
Câu 2 – Những điểm tựa của nhân vật người bà trong đoạn trích trên là:
+ Cánh cửa
+ Ông Hân
Câu 3 – Điểm nhìn chính: điểm nhìn của nhân vật “tôi” – người cháu trong câu chuyện.
– Tác dụng:
+ Giúp cho câu chuyện về cảnh ngộ của hai bà cháu thêm chân thực khách quan
+ Giúp người đọc cũng dễ dàng hình dung những suy nghĩ, cảm xúc của đứa cháu trước những đổi thay trong cuộc sống của hai bà cháu.
+ Việc người kể chuyện là một đứa trẻ mới 10 tuổi khiến câu chuyện tuy buồn nhưng không u ám, giọng kể đều đặn, không bi lụy.
Câu 4 Cảm nhận về những chi tiết ở cuối văn bản:
– Những chi tiết kết thúc tác phẩm nhưng có vai trò đặc biệt, ý nghĩa quan trọng đối với mạch phát triển của văn bản.
– Đây là những chi tiết nói về sự sinh sôi, đoàn tụ, nảy nở, phát triển phù hợp với tư tưởng “cuộc sống rồi sẽ tốt đẹp hơn” của văn bản.
Câu 5 HS rút ra được thông điệp ý nghĩa nhất với bản thân và lí giải hợp lí.
– Có thể rút ra thông điệp sau: tin vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống; yêu thương, quý trọng bậc ông bà, cha mẹ…
VIẾT
Câu 1 Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về thời khắc giao mùa trong đoạn trích Sang mùa, Tạ Hữu Yên.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn
Bảo đảm đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Thời khắc giao mùa trong đoạn trích đã cho.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu
Lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo các nội dung sau:
– Thời khắc giao mùa được đánh dấu bằng rất nhiều tín hiệu chuẩn bị sang thu như: chim bay, nắng hoai hoai, mây non, gió hiu hiu,mùi hương cốm… Tất cả làm bức tranh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng rất riêng biệt, nửa như chạm ngõ mùa thu, nửa như luyến tiếc mùa hạ.
– Thời khắc giao mùa được thể hiện bằng thể thơ năm với cách ngắt nhịp linh hoạt (2/3, 3/2); những từ ngữ chính xác, tinh tế; những hình ảnh đẹp đẽ, gợi cảm, các biện pháp tu từ nhân hóa, tương phản…
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. Có thể chấp nhận thất bại nhưng nhất định không được chấp nhận buông xuôi.
Từ gợi dẫn trên, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về cách ứng xử đúng đắn khi đối diện với thất bại của những người trẻ tuổi.
a. Bảo đảm bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận
Bảo đảm yêu cầu về bố cục và dung lượng (khoảng 600 chữ) của bài văn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Cách ứng xử đúng đắn khi đối diện với thất bại của những người trẻ tuổi
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
* Thân bài:
– Giải thích: Thất bại là trạng thái không đạt được kết quả như mình mong muốn. Buông xuôi là nản chí, không muốn cố gắng. Nhận định trên khẳng định châm ngôn sống cuộc đời có thể gặp thất bại nhưng nhất định không được nản chí, bỏ cuộc.
– Bàn luận:
+ Người trẻ cần có nhận thức rõ rằng thất bại là một phần trong cuộc sống và nên chọn những cách ứng xử đúng đắn.
+ Biết đứng dậy sau mỗi thất bại, vấp ngã; quyết tâm, nỗ lực vượt qua; biết rút ra những bài học kinh nghiệm; biết lập kế hoạch cho hành trình mới sau mỗi thất bại…
+ Biết chia sẻ những cảm xúc tiêu cực với người khác, cân bằng cảm xúc cá nhân sau mỗi lần thất bại; luôn giữ tinh thần lạc quan, nhìn nhận vấn đề tích cực để không bị nhấn chìm trong sự bi quan, tiêu cực…
– Mở rộng vấn đề, trao đổi với ý kiến trái chiều hoặc ý kiến khác…
* Kết bài: Khẳng định lại quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân
Lưu ý: HS có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.
đ. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ









