I. Khái niệm chung về thơ
– Thơ là một loại hình văn học sớm nhất của nhân loại. Thơ ra đời hầu như cùng lúc với nhạc, hoạ, múa nhảy trong các cuộc tế lễ thần linh, ma thuật thời nguyên thủy
– Thơ ca là sản phẩm của nhận thức, tưởng tượng và sáng tạo nhờ đó mà ngôn ngữ được phát triển ( lời thơ nảy sinh vào thời xa xưa của mỗi dân tộc lúc đó ngôn ngữ còn chưa hình thành, phải nhờ có thơ ca ngôn ngữ mới được phát triển – theo Mĩ học của Heghen)
– Thơ gắn với nhạc và hoạ: “Thi trung hữu hoạ”, “Thi trung hữu nhạc”
– Trải qua quá trình phát triển lâu dài, thơ ca đã hình thành được những hình thức đa dạng: từ thơ sử thi dài hàng chục vạn câu đến những bài thơ rất ngắn chỉ có 2, 3, 4 dòng như thơ tứ tuyệt, thơ Haikư…
II. Một vài quan niệm về bản chất của thơ ca
1. Có người xem bản chất thơ là tôn giáo. Hoạt động sáng tạo thơ ca gắn liền với những gì thiêng liêng, huyền bí
– Platông nói: bản chất thơ được biểu hiện trong linh cảm, những cảm giác thiêng liêng nhất giữa thế giới cao xa của thần thánh và thế giới người và nhà thơ là người trung gian có năng lực cảm nhận và biểu đạt.
– Hâyđêghơ cho rằng: thơ ca là môi giới giữa thần linh và loài người và các nhà thơ mang tính chất nửa thần linh nửa con người.
– Malácmê khẳng định: tất cả cái gì thiêng liêng đều biểu hiện trong sự huyền bí kể cả thơ
Cách hiểu như này dễ làm khô cạn đi nguồn cảm xúc chân thật, và sự sống nhiều màu vẻ của cuộc đời. Bản chất của thơ là khác biệt và xa lạ với tôn giáo. Dù thơ gắn với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con người nhưng không thể từ đó đẩy thơ ca vào địa hạt huyền bí xa lạ
2. Thơ không từ cuộc đời mà đến – Khi thi ca tìm nguồn nơi mộng tưởng
Có người xem thơ ca không khơi nguồn từ sự sống từ cuộc đời cụ thể. Thơ ca thoát ra ngoài xã hội, lấy thế giới mộng tưởng, lấy cái đẹp thơ mộng trong thiên nhiên tạo vật và chuyện cao xa muôn đời làm nguồn sáng tạo
– Xuân Diệu viết:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo mây và vơ vẩn cùng mây”
– Thế Lữ giải thích:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể
Mượn lấy bút nàng Li Tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca
Có thể thấy cả hai đều chạy theo mộng tưởng thoát li và chơi vơi ấy, thơ ca không t.hiện được chức năng chân chính của mình
– Nhóm Xuân Thu nhã tập cho rằng: “Thơ là cái gì huyền ảo tinh khiết, thâm thúy cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bất diệt của muôn vật” (Cõi vô cùng). Thơ trân trọng phần thâm thuý cao siêu…nhưng không phải là cái cao siêu của một cõi đạo, cõi vô cùng mà chính là cái cao đẹp ở giữa cuộc đời mà con người cần phải đấu tranh bảo vệ để có được.
3. Quan niệm xem bản chất của thơ thuộc về nhân tố hình thức; coi trọng yếu tố ngôn từ hơn sáng tạo nội dung
– Trong dòng chảy lý luận và thực tiễn thơ ca, đã từng tồn tại một khuynh hướng thiên lệch khi cho rằng bản chất của thơ chủ yếu nằm ở phương diện hình thức – cụ thể là ngôn từ, cấu trúc, vần điệu, nhạc tính và hình ảnh nghệ thuật. Theo quan điểm này, người làm thơ không nhất thiết phải truyền tải một nội dung rõ ràng hay thể hiện cảm xúc chân thành mà chỉ cần khéo léo sử dụng ngôn từ, sáng tạo hình thức nghệ thuật độc đáo là đủ để tạo nên giá trị thi ca. Những nhà thơ theo khuynh hướng hình thức luận thường nhấn mạnh đến “ngôn ngữ thơ” – coi thơ là trò chơi nghệ thuật của ngôn từ, là hình thức biểu hiện cái đẹp tinh tế, huyền ảo trong cách dùng từ, tạo nhạc và sắp xếp câu chữ.
– Tuy nhiên, cách nhìn này dễ dẫn đến sự phi nội dung hóa thơ ca, biến thơ thành sản phẩm kỹ thuật, thiếu cảm xúc và xa rời cuộc sống con người. Thơ không chỉ để thưởng ngoạn ngôn từ mà còn để truyền cảm xúc, khơi gợi nhận thức, phản ánh tâm hồn con người và bức tranh đời sống. Vì vậy, nếu chỉ dừng lại ở việc tô điểm hình thức mà thiếu đi chiều sâu nội dung và cảm xúc chân thành thì tác phẩm khó có thể tạo nên sự cộng hưởng bền lâu nơi người đọc.
4. Quan điểm đúng đắn về bản chất thơ: Thơ là sự bộc lộ nội cảm chân thành của con người trước cuộc sống
– Trong các loại hình văn học, thơ là thể loại đặc trưng cho phương thức trữ tình, là tiếng nói trực tiếp từ trái tim, bộc lộ thế giới nội cảm của con người trước cuộc sống, thiên nhiên và con người. Thơ không đơn thuần là ngôn từ hay kỹ thuật viết, mà là kết tinh của cảm xúc chân thành, là sự rung động mãnh liệt của tâm hồn nghệ sĩ trước những điều giản dị hoặc lớn lao trong cuộc đời.
– Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn” – đó là sự thổ lộ tự nhiên, không gò ép, là tiếng lòng thầm thì hay dồn dập, nhưng đều xuất phát từ thực tại sống động.
– Quan điểm đúng đắn về bản chất thơ khẳng định rằng: thơ không thể thoát ly đời sống, dù là hiện thực gần gũi hay những giấc mơ siêu thực thì cuối cùng thơ cũng phải có gốc rễ từ sự rung cảm trước cuộc sống. Mỗi bài thơ hay là một nhịp đập của trái tim, là nơi cảm xúc và tư tưởng gặp gỡ, thăng hoa trong hình thức nghệ thuật đặc biệt. Do đó, thơ phải chạm đến tâm hồn người đọc, tạo ra sự đồng cảm, thức tỉnh nhận thức và nuôi dưỡng vẻ đẹp tinh thần trong mỗi con người.
– Chính sự hòa quyện giữa nội dung cảm xúc sâu sắc và hình thức nghệ thuật tinh tế đã làm nên linh hồn của thơ ca. Người làm thơ cần giữ được trái tim nhạy cảm, biết rung động trước từng lát cắt của cuộc sống và thể hiện điều đó qua những dòng thơ trong trẻo, giản dị nhưng đầy ám ảnh.
III. Phân loại thơ
1. Phân loại theo phương thức biểu đạt
– Thơ trữ tình: Là thể loại thơ tiêu biểu nhất, phản ánh thế giới nội cảm của con người. Thơ trữ tình thường là tiếng nói của cảm xúc, tâm trạng cá nhân trước thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ví dụ: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Tây Tiến (Quang Dũng), Sóng (Xuân Quỳnh)…
– Thơ tự sự: Là loại thơ kể chuyện, thường kết hợp giữa yếu tố kể (tự sự) và yếu tố biểu cảm. Thơ tự sự có cốt truyện, nhân vật, tình tiết. Ví dụ: Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)…
2. Phân loại theo hình thức tổ chức ngôn từ
– Thơ luật: Là thể thơ có quy định chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm luật, vần điệu. Chủ yếu gặp ở thơ Đường luật, thơ Đường luật Việt Nam và thơ lục bát. Ví dụ: thơ Đường luật của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…
– Thơ tự do: Là thơ không bị gò bó bởi niêm luật hay số chữ trong câu. Thơ tự do tập trung thể hiện cảm xúc một cách linh hoạt, gần với dòng chảy tự nhiên của tư duy và tình cảm. Ví dụ: Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), Nói với con (Y Phương)…
3. Phân loại theo loại hình nội dung
– Thơ sử thi hay thơ tụng ca: Là những bài thơ ca ngợi những chiến công, nhân vật lịch sử, tinh thần yêu nước và lý tưởng lớn lao. Mang âm hưởng hào hùng, trang trọng. Ví dụ: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) – khẳng định chủ quyền dân tộc. Người con gái Việt Nam (Tố Hữu) – ca ngợi người phụ nữ yêu nước. Đất nước (Nguyễn Đình Thi) – thể hiện tình cảm thiêng liêng với Tổ quốc.
– Thơ thế sự: Là thơ phản ánh những hiện thực xã hội, nói về các thói đời, sự biến thiên, bất công và những vấn đề xã hội cụ thể. Nhiều bài mang tính châm biếm, đả kích hoặc triết lý nhân sinh sâu sắc. Ví dụ: Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nặng tính chiêm nghiệm thế sự. Thơ trào phúng của Tú Xương, Tú Mỡ đả kích sâu cay thói hư tật xấu trong xã hội.
– Thơ đời tư (thơ tình): Là những bài thơ viết về tình yêu đôi lứa, tình cảm cá nhân, nỗi cô đơn, khát vọng hạnh phúc, hay những rung động riêng tư. Đây là mảng thơ giàu chất trữ tình và rất phổ biến trong văn học. Ví dụ: Thơ tình của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Xuân Quỳnh…