HỘI TÂY
(Nguyễn Khuyến)
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!
Hướng dẫn phân tích bài thơ:
Giới thiệu khái quát bài thơ:
– Thể loại: Thất ngôn bát cú luật Đường.
– Bố cục 4 phần:
+ Phần đề (câu 1+2): Giới thiệu không khí Hội Tây (rộn ràng, động vui)
+ Phần thực (câu 3+4): miêu tả những trò vui.
+ Phần luận (câu 5+6): miêu tả những trò chơi.
+ Phần kết (câu 7+8): tình cảm chua xót của nhà thơ.
– Nội dung và nghệ thuật: Với giọng điệu chua chát, xót xa, bài thơ vừa thể hiện tài năng thơ ca bậc thầy, vừa bộc lộ lòng yêu nước thầm lặng và nỗi đau trước sự tha hóa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị thực dân.
Phân tích nội dung bài thơ:
1. Hai câu đề: Giới thiệ không khí hội Tây tưng bừng, rộn rã.
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
– Hai câu đề mở ra cảnh hội Tây rộn ràng, tưng bừng, tiếng pháo nổ vang, cờ xí rợp trời, đèn đuốc sáng trưng, vô cùng đông vui.
– Bề ngoài, không khí lễ hội có vẻ rất náo nhiệt, tưng bừng như báo hiệu thời đại “thăng bình” (an vui, thịnh trị).
– “Kìa”: ẩn sau cách dùng từ “kìa” – một tiếng thốt ngỡ ngàng, là cái nhìn lạnh nhạt, xa lạ của tác giả trước cảnh hội.
– Tiếng pháo reo, cờ kéo, đèn treo: Câu chữ có phần cường điệu, phóng đại → Gợi ra sự giả tạo, không tự nhiên của cảnh hội.
* Nguyễn Khuyến không hoàn toàn ca ngợi hội Tay; ông vẽ ra sự phô trương bề ngoài nhưng ngầm chứa sự mỉa mai, châm biếm (những người tham gia hội).
2. Hai câu thực: cảnh tham gia những trò vui của con người.
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo”.
– “Bà quan tênh nghếch”: một dáng vẻ lố bịch, ngây ngô, thiếu phẩm giá của tầng lớp thống trị.
– “Thằng bé lom khom”: dáng điệu vụng về, gò bó, mất đi vẻ hồn nhiên trong sinh hoạt dân gian truyền thống.
– Những trò chơi dân gian (vốn của người Việt, người Việt rất quen thuộc) vốn mang đậm nét văn hóa dân tộc, nay hiện lên méo mó, thiếu sinh khí.
→ Qua hai câu thơ, tác giả phơi bày sự kệch cỡm, lai căng trong các sinh hoạt văn hóa dưới ách đô hộ Pháp. Hội hè chẳng còn là dịp vui truyền thống mà trở thành sự mô phỏng vụng về, kịch cỡm xa lạ với tâm hồn dân tộc.
3. Hai câu luận: Cảnh con người tham gia trò chơi mua vui.
“Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”.
– Các trò chơi dân gian truyền thống như đu cây, leo cột mỡ xuất hiện nhưng đã biến chất:
+ “Cậy sức”, “tham tiền” → Thể hiện động cơ thấp hèn: phô trương sức mạnh, chạy theo vật chất.
→ Hội hè không còn là dịp để thể hiện nét đẹp tinh thần, giao lưu cộng đồng mà chỉ còn là sự bon chen, mưu cầu lợi ích cá nhân.
4. Hai câu kết: Nỗi xót xa, cay đắng và nhục nhã của tác giả
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!”
– Hai câu kết bật lên tiếng cười mỉa mai, sâu cay:
+ “Khen ai khéo vẽ”: lời khen giả, ngầm chứa sự châm biếm người tổ chức hội hè kiểu Tây hóa, đánh mất bản sắc dân gian và niềm tự tôn dân tộc.
+ “Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu”: niềm vui bề ngoài càng tưng bừng thì nỗi nhục mất nước, mất bản sắc văn hóa, càng sâu sắc.
– Câu kết như một tiếng thở dài, đau xót của Nguyễn Khuyến trước cảnh nước mất, nhà tan, văn hóa dân tộc bị xâm thực, biến đổi. Một khi văn hóa bị biến đổi thì suy nghĩa, nhận thức và hành động của con người cũng thay đổi. Từ đó, ta dần đánh mất bản thân mình, đánh mất ý chí và dần chấp nhận sự đô hộ, cai trị của người Pháp trên đất nước ta.
→ Qua hai câu kết, tác giả gửi gắm nỗi đau đớn, cay đắng trước sự tàn phá văn hóa dân tộc bởi chế độ thực dân và tầng lớp thống trị tay sai.
2. Nghệ thuật đặc sắc:
– Thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường: ngắn gọn, súc tích, kết cấu chặt chẽ, giàu nhạc tính,…
– Ngôn ngữ, hình ảnh: giản dị, đậm màu sắc dân gian,…
– Biện pháp tu từ: cường điệu, phóng đại → Sự đối lập giữa vẻ ngoài tưng bừng và thực chất nhục nhã làm nổi bật chủ đề phê phán.
– Nghệ thuật trào phúng: giọng điệu mỉa mai châm biếm vô cùng sâu cay. Cách nói bóng gió (ý tại ngôn ngoại) nhưng hướng vào trọng tâm: khinh bỉ những người tham gia hội, chỉ trích những kẻ tổ chức hội (tầng lớp thống trị tay sai)
III. Kết bài:
– Hội Tây là một bài thơ trào phúng đặc sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật thơ Đường luật chuẩn mực với bút pháp trào phúng sắc sảo, ngôn ngữ dân gian sinh động và giọng điệu chua chát, đắng cay.
– Qua đó, Nguyễn Khuyến không chỉ vẽ nên bức tranh xã hội suy đồi dưới thời Pháp thuộc mà còn thể hiện nỗi đau đớn, lòng yêu nước thầm kín và niềm tiếc nuối đối với văn hóa dân tộc.
Bài văn tham khảo:
Nguyễn Khuyến (1835–1909) được mệnh danh là “nhà thơ của làng quê Việt Nam”, đồng thời cũng là một bậc thầy trong thơ Nôm trào phúng. Qua những vần thơ sắc sảo, Nguyễn Khuyến không chỉ phản ánh cuộc sống mà còn bày tỏ thái độ yêu nước thầm kín, nỗi đau trước sự suy tàn của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Bài thơ Hội Tây là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện tài năng trào phúng và tâm sự u uất của ông trước cảnh đời nhiễu nhương.
Ngay từ hai câu đề không khí hội Tây tưng bừng, rộn ra:
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo”
Nguyễn Khuyến đã phác họa khung cảnh lễ hội náo nhiệt, tưng bừng với tiếng pháo, cờ xí, đèn đuốc giăng mắc. Bề ngoài, hội Tây mang dáng vẻ của một đất nước thịnh trị (“thăng bình”). Tuy nhiên, từ “kìa” được sử dụng với sắc thái ngỡ ngàng, như một ánh mắt xa lạ, hoài nghi, đã báo hiệu thái độ ngầm phê phán của tác giả. Không khí tưng bừng ấy không phải niềm vui thật sự, mà chỉ là một sự phô trương hình thức, giả tạo, khiến người ta thấy xa lạ, lố bịch.
Hai câu thực tiếp theo đi sâu miêu tả sinh hoạt và hình ảnh con người trong hội:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo”
Những hình ảnh này mang đầy tính trào phúng. Bà quan – đại diện cho tầng lớp thống trị – lại xuất hiện với vẻ “tênh nghếch,” thiếu nghiêm túc, lố lăng giữa đám đông. Đối lập với bà quan là thằng bé “lom khom,” dáng vẻ vụng về, lạc lõng. Các hoạt động bơi trải, hát chèo vốn mang đậm bản sắc dân tộc nhưng nay trở nên méo mó, kệch cỡm. Thông qua đó, Nguyễn Khuyến cho thấy sự đảo lộn các giá trị xã hội và văn hóa trong bối cảnh bị thực dân xâm lược.
Tiếp đến hai câu luận, tác giả chỉ ra rõ nét hơn sự tha hóa trong trò chơi hội hè:
“Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”
Các trò chơi truyền thống như đu cây, leo cột mỡ – những trò chơi thể hiện sức mạnh, sự khéo léo và tinh thần cộng đồng – giờ đây đã bị biến tướng. “Cậy sức” và “tham tiền” trở thành động lực chính, biến những sinh hoạt đẹp đẽ thành những hành vi phô diễn thể lực và lòng tham vật chất. Hội hè không còn là dịp sum vầy, giao lưu văn hóa, mà là nơi thể hiện sự thực dụng, bon chen thấp hèn. Đằng sau bức tranh vui nhộn ấy là một xã hội suy đồi về tinh thần và giá trị đạo đức.
Hai câu kết đã dồn nén nỗi lòng, sự phẫn uất của tác giả:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!”
Nguyễn Khuyến dùng lời “khen” đầy mỉa mai. Hội hè tưởng như vui vẻ nhưng càng vui bề ngoài bao nhiêu thì càng đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu trước thực trạng mất nước, mất văn hóa. Nỗi nhục ấy không chỉ bởi dân tộc phải chịu ách đô hộ, mà còn bởi chính những tầng lớp trên đã tiếp tay cho sự tha hóa, lai căng ấy. Giọng thơ mỉa mai, nhưng ẩn chứa trong đó là một tiếng khóc nghẹn ngào cho vận nước.
Về nghệ thuật, Hội Tây thể hiện sự tài hoa của Nguyễn Khuyến trong việc vận dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Cấu trúc bài thơ chặt chẽ theo lối “Đề – Thực – Luận – Kết” nhưng câu chữ lại tự nhiên, sinh động, không khô cứng. Bút pháp trào phúng được đẩy lên cao độ với ngôn ngữ bình dị, dân gian, giàu hình ảnh và sức gợi. Các động từ mạnh như “tênh nghếch,” “lom khom,” “cậy sức,” “tham tiền” vừa mang tính miêu tả cụ thể, vừa góp phần khắc họa tính chất lố lăng, suy đồi của cảnh vật và con người. Nghệ thuật tương phản, đối lập và phóng đại được vận dụng tài tình để làm bật lên sự đối nghịch giữa vẻ ngoài rực rỡ và bản chất suy đồi. Giọng điệu bài thơ là sự kết hợp tài tình giữa tiếng cười mỉa mai và nỗi xót xa thầm kín, để lại trong lòng người đọc dư vị đắng cay, đau đớn.
Qua bài thơ Hội Tây, Nguyễn Khuyến không chỉ ghi lại một hiện tượng xã hội mà còn cất lên tiếng lòng đầy trăn trở trước sự biến chất của văn hóa dân tộc. Bài thơ không chỉ là tiếng cười trào phúng sắc sảo mà còn là tiếng thở dài xót xa của một tâm hồn yêu nước, yêu văn hóa dân tộc sâu sắc. Tác phẩm đã góp phần làm nên diện mạo đặc sắc của thơ trào phúng Việt Nam cuối thế kỷ XIX.