Dàn bài hướng dẫn:
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Khuyến (1835–1909) là nhà thơ lớn thời Nguyễn, nổi tiếng với phong cách thơ Nôm giản dị, đậm đà hồn quê và tình người. Ông là người sống thanh bạch, có cốt cách thanh cao, trọng nghĩa tình, đặc biệt là trong quan hệ bạn bè.
– Giới thiệu bài thơ “Khóc Dương Khuê”: Viết khi Dương Khuê – bạn đồng khoa, tri kỷ, qua đời. Đây là bài thơ cảm động, thể hiện một tình bạn thủy chung, một tâm hồn chân thật, sâu sắc và nghĩa tình.
– Nhận xét: Bài thơ không chỉ là tiếng khóc tiễn biệt bạn hiền, mà còn là một áng văn trữ tình mẫu mực về tình bạn và nhân cách Nguyễn Khuyến.
II. THÂN BÀI:
1. Hoàn cảnh sáng tác và tình bạn Nguyễn Khuyến – Dương Khuê
– Cùng đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tý (1872), đều là người có học, có tài và đạo đức.
– Giao hảo thân thiết suốt hàng chục năm: cùng làm quan, cùng yêu văn chương, cùng uống rượu, ngâm thơ, chia sẻ nhân sinh quan.
– Bài thơ được viết sau khi Dương Khuê qua đời năm 1902 → là sự bộc lộ nỗi đau mất đi tri âm, tri kỷ lớn nhất trong đời.
2. Nỗi bàng hoàng, đau đớn trước cái chết của bạn (khổ 1)
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”
– Điệp từ “thôi đã thôi rồi” như tiếng nấc nghẹn ngào, thốt lên theo cảm xúc dồn nén.
– Giọng thơ xót xa, nhấn mạnh cú sốc khi nhận tin bạn mất.
– Câu “Nước mây man mác…” – cảnh vật như nhuốm buồn theo tâm trạng. Thiên nhiên như chia sẻ nỗi mất mát, gợi không gian mênh mang, trống trải.
→ Gợi mở không khí tang thương, khẳng định tầm quan trọng của người bạn đã khuất trong cuộc đời tác giả.
3. Hồi tưởng kỷ niệm, khẳng định tình bạn sâu sắc (khổ 2-3)
“Kể chi những chuyện vui xa
Xưa nay đâu dễ người ta gặp người.”
– “Người ta gặp người” – nghĩa là gặp được tri kỷ đích thực trong đời là điều vô cùng hiếm hoi.
– Gợi một chiêm nghiệm nhân sinh sâu sắc về tình bạn trong cõi nhân gian.
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ thuở trước sau,
Giao du trong đạo bạn bầu chi hơn?”
– Nhấn mạnh những kỷ niệm gắn bó từ lúc mới đỗ đạt, khi cả hai cùng bước vào đường quan lộ, chia sẻ vui buồn, lý tưởng.
– Tình bạn không thay đổi theo thời gian: “kính yêu từ thuở trước sau”.
– “Giao du trong đạo bạn bầu chi hơn?” – khẳng định không ai có thể thay thế Dương Khuê trong đời Nguyễn Khuyến.
→ Đây là đoạn hồi tưởng đầy tự hào và biết ơn về một tình bạn trọn vẹn và hiếm có.
4. Xót xa, tiếc nuối và cảm giác cô đơn trống vắng (khổ 4-6)
“Những tưởng là tay nam tay bắc
Ngờ đâu chân đã rút rồi đây!”
– Hình ảnh ẩn dụ “tay nam tay bắc” → đôi bạn như hai cánh tay gắn bó không rời.
– Cái chết của bạn làm sụp đổ kỳ vọng đồng hành suốt đời: “ngờ đâu…”.
– “Chân đã rút rồi đây!” → nói giảm nói tránh về cái chết, vừa kín đáo vừa xót xa.
“Tuổi già hạt lệ như mưa
Hỏi ai là kẻ khóc chua xót này!”
– Hình ảnh so sánh “hạt lệ như mưa” → nước mắt nhiều và không ngăn được, dù là người già vốn thường cạn cảm xúc.
– Câu hỏi tu từ bày tỏ sự tuyệt vọng, đau khổ: Không ai có thể khóc bạn bằng tôi – người tri kỷ gắn bó nhất.
“Uống rượu tiêu sầu thêm sầu
Lấy văn làm bạn càng đau thêm lòng.”
– Tình cảnh cô đơn tuyệt đối: không ai nâng chén rượu, không ai họa thơ.
– Thú vui tao nhã nay trở thành gợi nhớ đau thương, khi bạn đồng hành đã ra đi.
→ Những đoạn thơ này cho thấy tâm trạng rơi vào khoảng trống mất mát, sự tuyệt vọng và cô đơn khi không còn người bạn tri âm.
5. Lời tiễn biệt sâu sắc và kín đáo ở khổ cuối
“Cái khăn áo ngày xưa ai tá
Xin gửi cho tôi chút gọi là…”
– Nhắc lại kỷ vật thân thiết, biểu tượng cho tình bạn xưa.
– “Chút gọi là…” → cách nói khiêm nhường, thấm đẫm tình nghĩa, mong được giữ lại chút gì từ bạn, như một sự níu giữ.
→ Đây là đoạn thơ mang tính “vật hóa cảm xúc” – dùng hình ảnh vật chất để thể hiện tình cảm bền chặt, không phai.
6. Nghệ thuật đặc sắc
– Thể thơ song thất lục bát truyền thống: uyển chuyển, nhịp nhàng, phù hợp với tâm trạng tiếc thương.
– Ngôn ngữ giản dị, gần gũi: không hoa mỹ, không sáo rỗng, đậm chất “tình cảm thực”.
– Giọng điệu chân thành, xúc động, như lời tự sự, lời tâm sự thầm thì, mang tính cá nhân mà cũng dễ chia sẻ.
– Hình ảnh ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ, câu hỏi tu từ → góp phần tăng tính biểu cảm và chiều sâu triết lý.
III. KẾT BÀI:
– Khẳng định lại giá trị nội dung: “Khóc Dương Khuê” là một bài thơ xuất sắc về tình bạn: chân thành, thắm thiết, thủy chung – một tình cảm mang tính mẫu mực. Đồng thời là lời tiễn biệt, là tiếng khóc từ đáy lòng của một con người sống nặng nghĩa tình, biết trân quý tri âm tri kỷ.
– Khẳng định giá trị nghệ thuật: Thơ giản dị mà thấm thía, cảm động và dễ đi vào lòng người. Là một minh chứng cho tài năng, nhân cách và bản lĩnh văn chương của Nguyễn Khuyến.
– Liên hê mở rộng: Trong thời đại hôm nay, khi các mối quan hệ xã hội ngày càng thực dụng và hời hợt, bài thơ như một lời nhắc nhở quý giá về giá trị của tình người, của bạn bè chân chính – thứ tình cảm giúp nâng đỡ và làm đẹp cho cuộc đời.
Bài văn tham khảo:
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Khuyến là một trong những cây bút đặc biệt nổi bật. Ông không chỉ nổi tiếng với thơ Nôm trào phúng, thơ trữ tình mang hồn quê thuần Việt mà còn là người sống thanh bạch, coi trọng đạo nghĩa, đặc biệt là tình bạn. Một trong những bài thơ xúc động nhất viết về tình bạn trong văn học Việt Nam là bài “Khóc Dương Khuê”, sáng tác sau khi người bạn tri âm tri kỷ của ông – Dương Khuê – qua đời. Tác phẩm là tiếng khóc nghẹn ngào, chân thành, sâu sắc cho một tình bạn thủy chung, hiếm có; đồng thời thể hiện tâm hồn cao đẹp, nhân cách thanh cao của tác giả.
Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là bạn thân thiết, gắn bó suốt cuộc đời. Cả hai cùng đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tý (1871), cùng làm quan và cùng từ quan. Trong suốt những năm tháng ấy, họ luôn đồng hành, chia sẻ cả cuộc sống lẫn nhân sinh quan, từ văn chương đến rượu, từ chuyện đời đến lý tưởng làm người. Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến ở tuổi già, nghe tin liền viết bài thơ này như một tiếng nấc, một lời tiễn biệt nghẹn ngào. Bài thơ là kết tinh của tình bạn hơn nửa thế kỷ, là trang nhật ký cảm xúc mang chiều sâu của một con người nặng nghĩa, nặng tình.
Mở đầu bài thơ là một lời báo tin đột ngột mà nghẹn ngào:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Câu thơ đầu với điệp ngữ “thôi đã thôi rồi” không chỉ đơn thuần là thông báo sự mất mát mà là tiếng nấc nghẹn bật ra từ tâm can người ở lại. Đó là sự sững sờ, bàng hoàng, đau đớn. Câu thơ mang âm điệu như tiếng khóc bi thương, tiếng gọi đầy hụt hẫng. Câu thứ hai đưa người đọc vào khung cảnh bao la, mờ mịt của “nước mây man mác” – một bức tranh thiên nhiên u buồn, phản chiếu tâm trạng cô đơn, buốt giá trong lòng người mất bạn. Cảnh và tình hòa quyện, thiên nhiên như chia sẻ nỗi mất mát với con người.
Từ hiện tại, Nguyễn Khuyến hồi tưởng về những kỷ niệm xưa, nơi hai người bạn đã từng kề vai sát cánh suốt những tháng năm thanh xuân:
Kể chi những chuyện vui xa,
Xưa nay đâu dễ người ta gặp người.
Chỉ một câu thơ, nhưng đã hàm chứa triết lý nhân sinh sâu sắc. Trong cõi đời, tìm được một người bạn chân thành, hiểu mình và sống hết lòng vì nhau là điều vô cùng hiếm hoi. Tác giả không kể lại những kỷ niệm cụ thể, mà chỉ lặng lẽ thừa nhận chúng như một phần ký ức thiêng liêng, đáng trân trọng.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ thuở trước sau,
Giao du trong đạo bạn bầu chi hơn?
Ở đây, Nguyễn Khuyến gợi lại khoảng thời gian hai người còn trẻ, cùng đỗ đạt và bước vào chốn quan trường. Hai chữ “sớm hôm” mang ý nghĩa đồng hành thân thiết, không chỉ là bạn học mà còn là bạn tri âm, bạn đời. Họ không chỉ quý trọng nhau trong một giai đoạn, mà là “từ thuở trước sau” – nghĩa là cả đời giữ vẹn một lòng thủy chung, kính yêu. Câu cuối là một sự khẳng định dứt khoát: “Giao du trong đạo bạn bầu chi hơn?” – trên đời, không còn ai là người bạn bầu tri kỷ hơn bác Dương nữa.
Trong bài thơ Bạn đến chơi nhà, Nguyễn Khuyến đã khẳng định tình bạn ấy. Đó không chỉ là tình bạn đơn thuần mà còn là tình tri kỷ, nơi họ tìm thấy nhau trong ý hướng, lý tưởng và nhân cách sống.
Từ sự gắn bó thân thiết, bài thơ chuyển sang diễn tả nỗi đau tột cùng, sự trống trải sâu sắc khi người bạn ra đi:
Những tưởng là tay nam tay bắc,
Ngờ đâu chân đã rút rồi đây!
“Nam tay bắc” là hình ảnh ẩn dụ cho sự hòa hợp như hai bàn tay, một liên tưởng thân mật và gần gũi. “Ngờ đâu…” là cảm thán đầy đau xót, không ngờ rằng sự chia lìa lại đến nhanh và bất ngờ đến vậy. Cái chết được nói bằng lối nói giảm “chân đã rút” – kín đáo, sâu lắng mà vẫn đau nhói. Mất bạn tri âm, Nguyễn Khuyến thấy như mất đi một phần tâm hồn mình, không còn ai nâng chén, đối ẩm, xướng họa nữa.
Tuổi già hạt lệ như mưa,
Hỏi ai là kẻ khóc chua xót này!
Từ hình ảnh, ta thấy một ông lão tuổi cao mà nước mắt tuôn rơi như mưa – một nghịch lý giàu cảm xúc. Tuổi già thường gắn với sự bình tĩnh, thấu hiểu, nhưng ở đây, nỗi đau vượt quá mọi giới hạn tuổi tác. Câu hỏi tu từ “ai là kẻ khóc chua xót này?” không tìm câu trả lời mà chính là sự xác nhận rằng không ai đau đớn hơn chính Nguyễn Khuyến, người bạn tâm giao gần cả cuộc đời.
Uống rượu tiêu sầu thêm sầu,
Lấy văn làm bạn càng đau thêm lòng.
Hai câu thơ cho thấy tâm trạng bất lực và tuyệt vọng. Thú vui từng gắn bó – rượu và văn – giờ đây không thể làm vơi nỗi sầu, mà ngược lại chỉ làm lòng thêm quặn thắt. Không ai nâng chén cùng, không ai họa thơ cùng, những điều từng là niềm vui nay trở thành ký ức đau thương. Từ đây, Nguyễn Khuyến rơi vào trạng thái trống rỗng, lạc lõng giữa cuộc đời.
Cái khăn áo ngày xưa ai tá,
Xin gửi cho tôi chút gọi là…
Khổ thơ kết mang tính biểu tượng. Chiếc “khăn áo” – kỷ vật của một thời cùng sống, cùng chia sẻ, được nhắc đến như một cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Nguyễn Khuyến không mong gì cao sang, chỉ xin được giữ lại “chút gọi là” – cách nói khiêm nhường, thân tình, gói trọn nỗi nhớ thương lặng lẽ mà tha thiết. Câu thơ như một lời vĩnh biệt đầy nghẹn ngào nhưng không kém phần trang trọng và trân quý.
Xét về nghệ thuật, bài thơ được viết bằng thể song thất lục bát, một thể thơ truyền thống uyển chuyển, rất phù hợp để diễn tả cảm xúc bi thương, lắng đọng. Ngôn ngữ thơ giản dị, không dùng từ ngữ cầu kỳ, tượng trưng hay ước lệ, mà chân thực, mộc mạc như lời nói đời thường. Giọng thơ trầm buồn, tha thiết, xen lẫn tự sự và độc thoại nội tâm, tạo nên âm hưởng riêng biệt. Đặc biệt, bài thơ thể hiện xuất sắc nghệ thuật ẩn dụ, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, hoán dụ và đối lập, làm tăng chiều sâu cảm xúc và tính biểu cảm cao.
Không chỉ là một bài thơ khóc bạn, “Khóc Dương Khuê” còn là một bản tình ca buồn về tình bạn tri kỷ, là biểu tượng cao đẹp cho đạo lý sống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, khi các mối quan hệ bị chi phối bởi toan tính vật chất, bài thơ vẫn có giá trị sâu sắc như một lời nhắc nhở về tình người, về sự thủy chung và nhân văn trong đối nhân xử thế.
“Khóc Dương Khuê” là một thi phẩm mẫu mực về thơ khóc bạn trong văn học trung đại. Bằng những cảm xúc chân thật, lời thơ giản dị mà xúc động, Nguyễn Khuyến đã khắc họa thành công nỗi đau mất đi người tri kỷ, qua đó ngợi ca tình bạn thủy chung, sâu sắc hiếm có giữa hai nhà nho chân chính. Bài thơ là sự kết tinh của nhân cách, trí tuệ và tâm hồn Nguyễn Khuyến, một tiếng khóc không chỉ cho một con người, mà còn cho cả một thời đã qua – thời của nghĩa tình, của văn chương, của lý tưởng sống đẹp. Chính điều đó đã làm cho “Khóc Dương Khuê” trở thành áng thơ bất hủ, sống mãi với thời gian.