Bài thơ: BUỔI CHIỀU LỮ THỨ | Bà Huyện Thanh Quan

bai-tho-buoi-chieu-lu-thu-canh-chieu-hom-ba-huyen-thanh-quan

BUỔI CHIỀU LỮ THỨ
(Bà Huyện Thanh Quan)

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc[1] xa đưa lẩn trống đồn[2].
Gác mái, ngư ông[2] về viễn phố[3],
Gõ sừng, mục tử[4] lại cô thôn[5].
Ngàn mai[6] gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu[7] sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài[9], người lữ thứ[10],
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn[11]?

(Hồng Ân – Tùng Thư, Bà Huyện Thanh Quan – Hồ Xuân Hương, NXB Hội nhà văn 2012)


* Chú thích:

-Tiếng ốc[1]: Ở đây là tiếng tù và của người mục đồng hoặc người trên thuyền thổi lên lúc chiều muộn.
– Trống đồn[2]: Tiếng trống trên đồn. Có bản in là “trống dồn”.
– Ngư ông[3]: Ông lão câu cá, đánh cá.
– Viễn phố[4]: Nơi bến xa. Bến chợ, bến sông xa; nơi buôn bán, tụ tập thuyền bè.
– Mục tử[5]: Đứa trẻ chăn trâu.
– Cô thôn[6]: Xóm lẻ trơ trọi, vắng vẻ, heo hút
– Ngàn mai[7]: Rừng mai. Chỉ nơi hoang vắng
– Dặm liễu[8]: Đường đi có trồng liễu ở hai bên.
– Trang đài[8]: Phòng trang điểm của phụ nữ, đây dùng chỉ người ở nhà chờ đợi, mong ngóng. Có bản chép “Chương Đài”
– Lữ thứ[10]: Người ở quán trọ, dùng chỉ người đi xa không ở nhà.
– Hàn ôn[11]: Lạnh (hàn) và ấm (ôn), chỉ nỗi cô đơn, buồn tủi trong cảnh lữ khách nơi đất khách.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang