Hình ảnh nhân vật trữ tình trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh và bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về hai tác giả:
- Nguyễn Bỉnh Khiêm: nhà thơ, nhà triết học lớn thế kỉ XVI, thường gắn với hình tượng bậc hiền triết ẩn dật, sống thanh cao, an nhiên.
- Hồ Chí Minh: lãnh tụ vĩ đại, chiến sĩ cách mạng kiên trung, nhà thơ với tập Nhật kí trong tù thể hiện nghị lực và tinh thần lạc quan.
– Nêu vấn đề: So sánh hình ảnh nhân vật trữ tình trong hai tác phẩm để thấy rõ sự gặp gỡ và khác biệt trong quan niệm nhân sinh.
II. Thân bài:
1. Giải thích
– Nhân vật trữ tình: hình tượng cái “tôi” được nhà thơ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống qua thơ.
2. So sánh
* Điểm giống nhau:
- Cùng là bậc trí tuệ, nhân cách lớn, dùng thơ để giãi bày tâm tư: cả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồ Chí Minh đều dùng thơ ca để bộc lộ thái độ sống, phẩm chất thanh cao, gắn bó với thiên nhiên.
- Tinh thần ung dung, tự tại, vượt lên nghịch cảnh: dù ở hoàn cảnh nào, nhân vật trữ tình đều giữ vững tâm thế an nhiên, vượt lên mọi khó khăn của thực tại.
- Thể hiện triết lí sống sâu sắc, giàu giá trị nhân văn: qua thơ, cả hai đều gửi gắm quan niệm nhân sinh sâu sắc: tìm sự bình yên trong tâm hồn, sống thuận theo tự nhiên, coi nhẹ danh lợi.
* Điểm khác nhau:
– Trong tập Nhật kí trong tù:
- Hình ảnh nhân vật trữ tình là Hồ Chí Minh – một chiến sĩ cách mạng kiên trung.
- Dù chịu cảnh lao tù khắc nghiệt, Người vẫn giữ tinh thần thép, niềm tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng.
- Nhân vật trữ tình toát lên vẻ đẹp của ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan, ý thức trách nhiệm lớn lao với dân tộc.
Dẫn chứng: Ngắm trăng, Đi đường…
→ Hồ Chí Minh: dấn thân, đấu tranh dù trong cảnh lao tù, vẫn lạc quan, hướng về cách mạng.
– Trong bài thơ Nhàn:
- Nhân vật trữ tình là Nguyễn Bỉnh Khiêm – một ẩn sĩ ưa lối sống thanh đạm, thoát khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên.
- Bài thơ bộc lộ tâm thế rút lui về quê, sống “nhàn” để giữ gìn nhân cách, thoát khỏi vòng danh lợi nơi triều đình.
- Nhân vật trữ tình toát lên vẻ đẹp của trí tuệ uyên thâm, thái độ coi trọng sự an nhiên, giản dị trong cuộc sống, giữ gìn nhân cách cao đẹp.
Dẫn chứng: “Một mai, một cuốc, một cần câu / Thơ thẩn dầu ai vui thú nào…”
→ Nguyễn Bỉnh Khiêm: chọn nhàn, tránh đời để giữ thanh cao.
3. Nhận xét chung
- Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn sự ẩn dật, nhàn tản để giữ mình thanh cao, thì Hồ Chí Minh khẳng định tinh thần dấn thân, lạc quan, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng.
- Cả hai đều để lại hình ảnh nhân vật trữ tình tiêu biểu cho trí tuệ và nhân cách Việt Nam, nhưng với hai sắc thái khác nhau: một bên là triết lí nhàn lánh đời, một bên là ý chí cách mạng sắt đá.
- Hai hình tượng nhân vật trữ tình phản ánh hai lí tưởng sống khác nhau, nhưng đều góp phần tạo nên bản lĩnh và chiều sâu tư tưởng của con người Việt Nam.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại: nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù và Nhàn tuy khác nhau về bối cảnh, quan niệm sống, nhưng cùng thể hiện vẻ đẹp tinh thần Việt Nam: ung dung, kiên cường, giàu trí tuệ.
– Liên hệ: Bài học cho con người hôm nay – biết sống lạc quan, vượt khó, đồng thời giữ gìn nhân cách, sự thanh cao trong tâm hồn.
Bài văn tham khảo:
Bài văn 1:
Về khái niệm nhân vật trữ tình, Từ điển thuật ngữ văn học đinh nghĩa như sau: “Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả – nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể đôi khi có cả nét vẽ chân dung…”.
Trong văn chương trung đại, hình tượng nghệ thuật để lại ấn tượng nổi bật về con người đó là hình tượng người ẩn sĩ. Trong môi trường văn hóa trung đại, khái niệm ẩn sĩ dùng để chỉ những nhà Nho vì lí do nào đó mà bộ phận trí thức này có ngã rẽ về phía ẩn dật. Xét về lẽ xuất xử, về cơ bản là họ xa lánh cuộc đời, không màng đến thế sự công danh. Ở những con người này toát lên vẻ đẹp nhân cách cứng cỏi và bản lĩnh kiên cường, luôn làm chủ được hành vi của bản thân. Còn đối với thời cuộc họ bộc lộ sự an nhiên, tự tại của những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, họ không màng danh lợi nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống của người dân thường. Họ tìm về với thiên nhiên bằng lối sống ẩn dật.
Với Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, hình ảnh của những bậc hiền triết phương Đông cũng xuất hiện. Chính điều này góp phần mang lại màu sắc cổ điển cho tập thơ. Đọc Nhật ký trong tù, bạn đọc bắt gặp một cái tôi trữ tình ung dung, nhàn dật, một tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên mà cách thời đại Nhật ký trong tù bốn thế kỉ về trước cụ Trạng Trình đã từng có:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Mãi đến bốn thế kỉ sau, Hồ Chí Minh lại viết bài thơ Tân xuất ngục học đăng sơn:
Phiên âm:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Dịch thơ:
Mới ra tù tập leo núi
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ,
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa
Con người xuất hiện trong không gian khoáng đạt, đứng giữa trời đất, đầu đội trời chân đạp đất, nối giữa trời và đất. Tân xuất ngục học đăng sơn là một thi phẩm đẹp bởi nhiều lẽ, trước hết là nhờ cảnh mang một vẻ đẹp hùng vĩ hài hòa, đẹp đến trong suốt. Sau đó là hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện với tư thế điềm nhiên dạo bước giữa thiên nhiên núi rừng như một vị tiên lạc giữa cõi trần.
Đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời của nó được viết ngay sau khi ra tù, sau hơn một năm bị giam cầm (1942-1943), sức khỏe của Hồ Chí Minh bị giảm sút rất nhiều, đôi chân gần như bị tê liệt; ra tù, Người cố gắng tập leo núi, luyện cho sức khỏe sớm phục hồi để về nước ta mới thấy được bản lĩnh kiên cường, đứng cao hơn hoàn cảnh của người tù Hồ Chí Minh.
Đến với Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta gặp được con người hòa mình với thiên nhiên vui cái thú điền viên để giữ cho tâm hồn được thanh khiết. Đến với Tân xuất ngục học đăng sơn của Hồ Chí Minh, bạn đọc được gặp một con người trước hết vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của bản thân để bộc lộ, giãi bày tấm lòng trong sáng như gương: “Lòng sông gương sáng bụi không mờ”.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên nhiên là điều kiện cần để giữ mình. Đối với Hồ Chí Minh thiên nhiên là phương tiện để bộc lộ mình. Từ giữ mình đến bộc lộ mình là cả một khoảng cách, ở đây giữ thanh khiết là điều hiển nhiên đã đạt được. Rồi sau đó mới xét đến con người ung dung dạo bước giữa sơn thủy hữu tình nhưng tuyệt nhiên không bàng quan trước cuộc đời mà “Dao vọng Nam thiên ức cố nhân”. Đấy chính là những vẻ đẹp cổ điển của hình tượng nhân vật trữ tình trong “Nhật ký trong tù”.
Bài văn 2:
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, văn chương Việt Nam luôn đồng hành cùng đời sống tinh thần của con người. Mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi bậc danh nhân lại để lại cho hậu thế những dấu ấn đặc sắc qua thơ ca. Trong số đó, hai gương mặt tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồ Chí Minh. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết học lớn của thế kỉ XVI, gắn với hình tượng bậc hiền triết ẩn dật, sống thanh cao, an nhiên, thì Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại, chiến sĩ cách mạng kiên trung của thế kỉ XX, đồng thời cũng là một nhà thơ với tập Nhật kí trong tù thể hiện nghị lực phi thường và tinh thần lạc quan.
Đặt hình ảnh nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh nhau, ta có thể nhận ra những điểm gặp gỡ và khác biệt trong quan niệm nhân sinh, đồng thời thấy rõ chiều sâu trí tuệ và nhân cách lớn của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử.
Trong thơ ca, nhân vật trữ tình không phải là nhân vật như trong truyện hay tiểu thuyết, mà là hình tượng cái “tôi” của tác giả – nơi nhà thơ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, lý tưởng sống. Thông qua nhân vật trữ tình, người đọc có thể nhận ra quan niệm về cuộc đời, nhân sinh quan, thế giới quan của tác giả.
Trước hết, cả Hồ Chí Minh và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là những bậc trí tuệ và nhân cách lớn, dùng thơ để giãi bày tâm tư và thái độ sống. Nếu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm đẫm chất triết lí uyên thâm, khẳng định lối sống nhàn an nhiên, thì thơ của Hồ Chí Minh chứa chan khí phách cách mạng, tình yêu thiên nhiên và niềm tin vào ngày mai.
Thứ hai, trong cả hai tác phẩm, nhân vật trữ tình đều thể hiện tinh thần ung dung, tự tại, vượt lên nghịch cảnh. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cho mình cuộc sống ẩn dật, rời xa chốn quan trường đầy bon chen để tìm sự yên bình trong thiên nhiên, giữ tâm thế an nhiên trước vòng danh lợi. Hồ Chí Minh dù ở trong ngục tù tăm tối, khổ cực nhưng vẫn giữ được tinh thần lạc quan, tâm hồn tự do vượt lên xiềng xích.
Cuối cùng, cả hai đều gửi gắm trong thơ những triết lí sống sâu sắc, giàu giá trị nhân văn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là quan niệm sống thuận theo tự nhiên, coi nhẹ công danh phú quý để giữ gìn nhân cách. Với Hồ Chí Minh, đó là niềm tin vào sức mạnh tinh thần, vào sự tất thắng của cách mạng và khát vọng tự do.
Tuy có những điểm tương đồng, nhưng xuất phát từ bối cảnh lịch sử, vị trí xã hội và lý tưởng sống khác nhau, hình ảnh nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồ Chí Minh cũng mang những nét riêng độc đáo
Nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một người nhập thế. Hồ Chí minh viết Nhật Kí trong tù khi bị giam trong nhà tù chính quyền Tưởng Giới Thạch. Trong chuỗi ngày bị giam cầm đầy khổ cực – cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, phải di chuyển từ nhà lao này sang nhà lao khác – Người đã viết nên 133 bài thơ bằng chữ Hán, sau này tập hợp thành Nhật kí trong tù.
Hình ảnh nhân vật trữ tình trong tập thơ chính là một chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất. Dù hoàn cảnh tù đày gian khổ, Người vẫn giữ vững ý chí thép, niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Bài thơ Đi đường là minh chứng rõ nét:
“Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng…”
Con đường đi đầy gian khó cũng chính là ẩn dụ cho con đường cách mạng. Nhưng sau gian lao, chiến sĩ cách mạng sẽ đến với thắng lợi huy hoàng.
Nhân vật trữ tình trong tập thơ cũng toát lên tinh thần lạc quan, yêu đời, tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên ngay giữa chốn lao tù. Trong Ngắm trăng, ta bắt gặp một tâm hồn thi sĩ bay bổng:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
Bị xiềng xích trói buộc về thể xác, nhưng tâm hồn Người vẫn tự do, giao hòa với vầng trăng – biểu tượng của cái đẹp vĩnh hằng.
Đặc biệt, nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù còn mang ý thức trách nhiệm lớn lao với dân tộc. Từng câu thơ là sự khẳng định tinh thần dấn thân, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh đã biến nhà tù thành nơi tôi luyện ý chí và biến thơ ca thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ.
Tóm lại, nhân vật trữ tình trong tập thơ của Hồ Chí Minh hiện lên với vẻ đẹp của ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và trách nhiệm lịch sử.
Nhân vật trữ tình trong Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người xuất thế. Ngược lại với Hồ Chí Minh, Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác bài thơ Nhàn trong hoàn cảnh đã cáo quan về ở ẩn tại quê nhà Trung Am. Ông chọn lối sống nhàn để giữ mình thanh cao, thoát khỏi vòng danh lợi nơi triều đình.
Nhân vật trữ tình trong Nhàn hiện lên là một ẩn sĩ thanh cao, giản dị, hòa hợp với tự nhiên. Ngay ở hai câu đầu, ta đã thấy thú vui lao động dân dã:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
Cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, với thiên nhiên bình dị, nhưng lại chứa đựng niềm vui, sự ung dung tự tại.
Ở những câu tiếp theo, nhân vật trữ tình bộc lộ rõ thái độ coi thường danh lợi:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
Ông tự nhận mình “dại” khi chọn đời sống nhàn, nhưng đó chính là sự “khôn” theo triết lí của mình: tránh xa vòng danh lợi để giữ nhân cách.
Cuối bài thơ, hình ảnh nhân vật trữ tình càng khẳng định sự an nhiên:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Danh lợi chỉ như giấc chiêm bao, ngắn ngủi, hư ảo, không thể sánh bằng đời sống an nhàn, hòa hợp với thiên nhiên.
Như vậy, nhân vật trữ tình trong Nhàn toát lên vẻ đẹp của trí tuệ uyên thâm, thái độ sống giản dị, coi trọng sự thanh cao.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn nhàn tản, ẩn dật để giữ mình thanh cao, thoát khỏi vòng danh lợi, thì Hồ Chí Minh khẳng định tinh thần dấn thân, lạc quan, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng. Một bên là triết lí “nhàn để giữ mình”, một bên là tinh thần “dấn thân để cứu nước”.
Tuy khác biệt, cả hai đều để lại hình ảnh nhân vật trữ tình tiêu biểu cho trí tuệ và nhân cách Việt Nam: ung dung, kiên cường, giàu lòng nhân ái, gắn bó với thiên nhiên. Hai hình tượng ấy phản ánh hai lí tưởng sống khác nhau, song đều góp phần tạo nên bản lĩnh và chiều sâu tư tưởng của con người Việt Nam qua nhiều thế kỉ.
Nhân vật trữ tình trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy xuất hiện ở hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau, mang hai quan niệm sống khác nhau, nhưng đều chung một vẻ đẹp tinh thần Việt Nam: ung dung, tự tại, giàu trí tuệ và bản lĩnh.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy cho hậu thế bài học biết buông bỏ danh lợi để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, thì Hồ Chí Minh truyền lại ngọn lửa của tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường, khát vọng tự do và trách nhiệm với dân tộc.
Trong xã hội hiện đại hôm nay, mỗi người càng cần biết sống lạc quan, vượt qua thử thách, đồng thời giữ gìn nhân cách, sự thanh cao trong tâm hồn – như bài học mà hai bậc hiền triết, hai nhà thơ lớn đã để lại cho muôn đời.