Phân tích ý nghĩa đoạn trích Trao duyên (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

phan-tich-y-nghia-doan-trich-trao-duyen-trich-truyen-kieu-nguyen-du-10795-2

Phân tích ý nghĩa đoạn trích “Trao duyên” (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

I.  Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều, nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

+ Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.

+ Đoạn trích Trao duyên từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều thuộc phần Gia biến và Lưu lạc. Đây là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi muốn nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình để chuộc cha.

+ Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến

II. Thân bài

1. Phân tích nội dung chủ đề của tác phẩm.

a. Hoàn cảnh diễn ra cuộc trao duyên

– Truyện Kiều trước hết là câu chuyện tình yêu của đôi trai tài gái sắc Kim – Kiều. Mối tình của họ bắt đầu với những trang đẹp nhất của tình yêu nam nữ xưa nay (không bị lễ giáo phong kiến ràng buộc, không bị vẩn đục bởi danh vọng tiền tài, nồng thắm mà rất sáng trong). Bất ngờ gia đình gặp tai biến, Kiều quyết định bán mình chuộc cha.

– Đêm trước khi rời nhà, Thuý Kiều mới có thời gian cho riêng mình và nàng nghĩ ngay đến Kim Trọng: không biết chàng sẽ ra sao khi trở về mà không gặp nàng, chắc chàng sẽ vô cùng đau khổ. Và Thuý Kiều nghĩ rằng mình là kẻ phụ tình, bội ước, lỗi thề, kẻ gây ra đau đớn cho người yêu. Đó là lý do khiến Thuý Kiều :

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn tấm khăn”

– Không chỉ đau khổ, Thuý Kiều còn muốn tìm cách bù đắp cho người yêu để chàng bớt đau khổ. Ý định này đến với Thuý Kiều một cách hoàn toàn đột ngột, bất ngờ. Thuý Kiều khi đã “ngồi nhẵn tàn canh” mà chưa nghĩ ra cách nào thì Thuý Vân “tỉnh giấc xuân” đến bên chị ân cần hỏi han, chia sẻ. Chính sự quan tâm đúng lúc, xuất hiện đúng lúc, sự đồng cảm của Thuý Vân đã khiến cho Thuý Kiều nảy ra ý định táo bạo này. Kim Trọng chính là nguyên nhân để nàng quyết định trao duyên cho em. Và nàng tìm mọi cách để thuyết phục em.

b. Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim

+ Thuý Kiều đã mở lời trao duyên bằng câu đề nghị:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

– Đó là một câu đề nghị lạ lùng: lạ lùng ở cách xưng hô (cậy em, thưa, chịu lời), ở hành động của Kiều với em gái: lạy em gái. Thật thiêng liêng mà thật trái với tôn ti trật tự phong kiến. Lạ lùng ở cả thái độ sao mà khẩn thiết.

+ Sức nặng của lời đề nghị rơi cả vào những từ: lạy, thưa, cậy em, chịu lời.

+ Nguyên nhân của thái độ ấy: vì Kiều hiểu việc mình nhờ là một việc hết sức quan trọng, cũng hết sức tế nhị và đầy khó khăn với Thuý Vân. Bởi xưa nay trong cuộc sống người ta có thể trao cho nhau thứ này, thứ nọ nhưng chẳng mấy ai trao tình yêu và nài ép người khác hãy yêu lấy người mình yêu. Thuý Kiều hiểu sự khó xử của em và hiểu đó là một sự hi sinh của Thuý Vân nếu nhận lời giúp nàng. Đó là một cái ơn sâu nặng.

+ Thậm chí, ngay cả trình tự việc làm của Kiều cũng rất có dụng ý: mời em ngồi lên, lạy rồi mới thưa → Một Thuý Kiều sắc sảo, thông minh, tế nhị, khéo léo, nhạy cảm.

– Thuý Kiều dần dần nói rõ về nội dung lời thưa:

+ Trước tiên nàng giãi bày với em gái về hoàn cảnh riêng tư của mình, biến cố tình yêu: “đứt gánh giữa đường”. Thành ngữ đứt gánh giữa đường vừa gợi lên biến cố tình yêu dang dở của đời Kiều vừa cho thấy tình yêu với Kiều đâu chỉ là tình mà còn là nghĩa, là trách nhiệm đã gánh dở trên vai, nay đứt gánh thì không thể bỏ dở, phải nhờ người gánh tiếp.

+ Tiếp đó, nàng đề nghị Vân thay mình trả nghĩa cùng Kim Trọng:

  • “Tơ thừa” gợi mối duyên tình dang dở giữa Kim và Kiều.
  • “Mặc em”: không phải là mặc kệ mà là hoàn toàn trông cậy vào em, tùy em định liệu.
  • Thuý Kiều thuyết phục Thuý Vân nhận lời trả nghĩa với Kim Trọng. Thuý Kiều thuyết phục em bằng cách kể lại vắn tắt 2 biến cố:

+ Gặp Kim Trọng, yêu và hẹn ước thề nguyện.

+ Gặp sóng gió bất kì để rồi gia đình tai biến, tình yêu dang dở, rơi vào cảnh huống day dứt giữa tình và hiếu.

Những lời kể chứa đầy tình cảm của Thuý Kiều, bao nhiêu thiết tha trong lời kể về mối tình với Kim Trọng.

– Từ “khi” được điệp lại 3 lần như một sự phơi trải của quá khứ hạnh phúc trong tâm trí của nàng Kiều. Nhưng cũng là để nhằm giãi bày cho Thuý Vân hiểu thêm rằng tình yêu giữa Kim và Kiều đã nguyện ước ba sinh, đã đằm thắm mặn nồng, đã là món nợ lòng không thể phũ phàng bỏ dở, phải có người gánh tiếp nợ tình.

– Muốn giãi bày cụ thể hơn với Vân về cách xử sự của Kiều trước hoàn cảnh bi kịch để mong tìm sự thông cảm bằng hành động của Thuý Vân:

+ Gia đình tai biến, nàng đã lấy hiếu đặt lên tình. Đó là trách nhiệm tất yếu cho dù tự nguyện. Nhưng điều đó khiến cho tình yêu tan vỡ, khiến nàng phải day dứt.

+ Tình yêu tan vỡ đó là nỗi thống khổ đối với Kiều, là mất mát đối với Kim Trọng. Nàng đành phải lấy nghĩa đặt lên tình và việc này nàng nhờ Vân san sẻ giúp. Đã vì gia đình mà hi sinh tình yêu, Thuý Kiều cũng mong muốn ở Thuý Vân một sự hi sinh để nàng có thể trả nghĩa cho Kim Trọng.

– Thuý Kiều viện đến tình máu mủ, viện đến cái chết, lại khẩn cầu em ban cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao dẹp của em

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nuớc non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

+ Những thành ngữ “tình máu mủ” , “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ em dẫu biết rằng tuổi xuân em còn dài, em sẽ thiệt thòi nhiều khi lấy Kim Trọng, lời nước non này nặng lắm. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình.

+ Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, đều ngầm chỉ cái chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết, sắp ra đi vĩnh viễn và đang nói lời trăng trối với người còn sống. Trước khi chết, Thuý Kiều chỉ còn một điều day dứt đó thôi. Lời của người sắp chết chẳng ai nỡ từ chối bao giờ.

→ Thuý Kiều thật sắc sảo, khôn ngoan, nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm đúng lúc, đúng chỗ. Có thể nói ở phần thơ đầu con người lí trí đã dồn nén con người tình cảm trong Thuý Kiều để thuyết phục Thuý Vân bằng mọi cách. Tâm trạng Thuý Kiều nhẹ nhõm, thanh thản phần nào. Cơn sóng lòng lúc trước đang trào dâng có lẽ giờ đã lắng xuống.

c. Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân

– Kiều trao kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân:

+ Lý do: Tình yêu nào mà chẳng có thề hẹn, có những kỷ vật thiêng liêng. Thuý Vân đã không vì sự ích kỷ mà chối từ lời nhờ cậy của Thuý Kiều thì Thuý Kiều cũng không thể vì ích kỷ mà giữ khư khư lấy kỷ vật cho riêng mình. Quan trọng hơn, có trao kỷ vật cho Thuý Vân thì Thuý Kiều mới chứng tỏ được mình không còn vương vấn gì với mối tình cũ nữa, mà đã trao gửi hết cho em rồi, khiến cho Thuý Vân đỡ băn khoăn, đỡ phải tủi thân.

+ Trao kỉ vật: đó là: Chiếc thoa: Vật làm quen, kỷ niệm đầu tiên; Tờ mây: tờ giấy ghi lời thề ước (có vẽ hình mây); Phím đàn, mảnh hương nguyền. Đây là những kỉ vật hết sức gắn bó, thiêng liêng đã từng ghi nhận, chứng giám cho mối tình đẹp đẽ, nồng nàn của Kim và Kiều.

+ Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật: Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân Kiều dùng các từ ngữ đặc sắc: “Của chung” tức là trước là của Kiều và Kim, nay là của Kim và Vân, nhưng vẫn xác định thêm tư cách của Kiều trong đó nữa. Thuý Vân là tư cách mới, người mới được trao, còn Thuý Kiều là người trao nhưng chưa dứt diểm. “Của tin” tức là những kỉ vật ấy đâu chỉ là vật chứng giám thiêng liêng mà còn là niềm tin gửi lại cho nhau. Sở dĩ Kiều không nói “của em” mà nói là của chung, của tin vì tay trao mà lòng nuối tiếc, trao duyên nhưng không muốn trao tình. Vì còn khao khát được trở về sống trong tình yêu ấy bằng kỉ vật.

→ Kiều đau đớn, xót xa, quằn quại vì mỗi kỷ vật đều gợi lên tình yêu tha thiết, đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng, lời thề hẹn hôm nào thoắt đã là chuyện của ngày xưa. Tất cả còn có ý nghĩa gì đâu khi người đã mất, chút của tin còn cũng đanh phải trao đi. Do vậy những kỷ vật đã làm thức dậy tình yêu mãnh liệt trong lòng Thuý Kiều, khiến Thuý Kiều trở lại tâm trạng bi kịch như ban đầu.

– Sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều dặn dò Thuý Vân:

+ Thuý Kiều tự coi mình là người “mệnh bạc” và dặn dò Thuý Vân mai sau có khi nào giở lại những kỷ vật tình yêu, đừng quên Thuý Kiều, một phần linh hồn của Thuý Kiều là ở trong đó.

“Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

– Kiều bất ngờ nhận thấy nghịch cảnh mất mát: một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của Vân, một bên là bất hạnh của nàng, chỉ còn là người mệnh bạc; một bên là mất mát (mất người) với một bên là còn – còn chút của tin; một bên là tương lai mờ mịt, như đi vào cõi chết ( mai sau dù có bao giờ) với một bên hiện tại khổ đau tan vỡ… Vượt lên trên những đối lập ấy chính là nghịch cảnh tình chị – duyên em

– Ước nguyện của Kiều: Vẫn khát khao được trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử, vẫn ước nguyện được đền đáp lời thề tình yêu với Kim Trọng. Vẫn mong trở về để nhận được sự cảm thông, chia sẻ của người thân yêu, của Kim Trọng:

“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”

– Giây phút này Kiều ý thức đầy đủ về sự mất mát của mình, nỗi đau của mình. Sự bội ước lời thề, phụ tình cũng chẳng qua đều là oan trái, còn tình yêu vẫn mãnh liệt trong nàng. Đến đây, lời dặn dò của Kiều đối với em gái thực chất đã quay về hướng vào chính mình. Nỗi đau trao duyên đã khiến nàng quên mất người đối thoại với mình, ngồi cạnh mình.

– Hoà trong nội dung, nhịp điệu đoạn thơ cũng trở nên đứt nối, đuối dần đi, ngôn ngữ thơ siêu thoát, tràn ngập những hình ảnh của cõi mộng, cõi chết (hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió, thác oan, mệnh bạc…), những điển cố… mang một tiếng đập khác thường, rỉ máu yếu đuối của trái tim, một tiếng nói mơ hồ vọng về từ cõi khác, một chiếc linh hồn phiêu diêu đi vào cõi vô cùng vô tận của trống vắng cô đơn.

→ Đó là tâm trạng do quá đau đớn, xót xa mà không làm chủ được lý trí và lời nói. Đang nói với Thuý Vân mà Thuý Kiều như quay sang để độc thoại một mình. Một tâm trạng rối bời, bi kịch đẩy lên cao phá vỡ thời gian khách thể, chỉ còn thời gian không gian tâm trạng quá khứ, mai sau, lẫn lộn mơ thực…

d. Tâm trạng của Thúy Kiều khi trở về thực tại, hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng

– Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển sang đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng về một hiện thực không thể thay đổi, tình yêu đã đổ vỡ, về thân phận đầy những nỗi bất hạnh của chính nàng.

+ Tình yêu tan vỡ, duyên phận dở dang: “bây giờ trâm gãy tình tan”; “tơ duyên ngắn ngủi”

+ Thân phận bạc bẽo, mỏng manh: phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi…

– Sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập: Một bên là tình yêu tan vỡ, thân phận mỏng manh, bạc bẽo với một bên là tình yêu mãnh liệt: “muôn vàn ái ân”; “trăm nghìn”; “tình quân”... diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình yêu mãnh liệt không thôi.

Đól à tiếng kêu xé lòng của Thuý Kiều (một tiếng nấc uất nghẹn):

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

– Câu thơ vừa là tiếng gọi, vừa là lời than, là nỗi tuyệt vọng đau xót cùng cực của Thuý Kiều. Tên Kim Trọng được nhắc đến hai lần, mà Thuý Kiều lại gọi là “Kim lang” – chồng, gọi đến hai lần cùng với những thán từ chỉ sự đau đớn, tuyệt vọng, lại thổ lộ, lại nhận lỗi với Kim Trọng “thiếp đã phụ chàng”. Thuý Kiều vẫn chưa dứt được tình với Kim Trọng. Đã nhờ Thuý Vân trả nghiã cho Kim Trọng vẫn tự cho mình là kẻ phụ tình, vì nàng hiểu tình có thể trả bằng tình sao trả bằng nghĩa. Cuối cùng Thuý Kiều đã hoàn toàn rời xa khỏi sự việc trao duyên để đến với chữ tình.

– Cuối cùng, dù đau đớn, Kiều đã trao duyên. Nhưng duyên đã trao mà tình thì không thể dứt. Kiều vẫn không thể thanh thản.

– Đoạn trích Thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. Lời nhờ cậy đầy đau khổ khiến cho Kiều như đứt từng khúc ruột. Thế nhưng, trong hoàn cảnh ấy, Kiều không còn sự lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhân cách cao đẹp của Kiều thể hiện rõ bởi sự hi sinh hạnh phúc cá nhân, quên đi bản thân mình, quên đi mối tình đẹp đẽ của mình với Kim Trọng đề đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, Kiều buộc lòng phải chọn chữ “hiếu” vì nàng không thể giương mắt nhìn cha và em bị hành hạ tới chết được.

2. Phân tích những đặc sắc về hình thức của tác phẩm.

– Nguyễn Du rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, tâm trạng Thuý Kiều hiện ra đa dạng, phức tạp, tinh tế như chính con người thật.

– Tác giả sử dụng ngôn từ chắt lọc, tinh tế để tạo nên hình tượng nhân vật sắc nét, gần gũi. Bút pháp sắc bén và tư duy ngôn từ đa dạng tạo nên dấu ấn đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du:

+ Tác giả sử dụng những điển cố, điển tích điển hình để thể hiện nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều, “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”, “trâm gãy bình tan”, “ngậm cười chín suối”, “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Những hình ảnh này nhằm làm nổi bật nỗi thống cổ trong hoàn cảnh éo le của nàng Kiều.

+ Ngôn ngữ độc thoại: thể hiện ý chí quyết tâm cắt bỏ đoạn tình cảm với chàng Kim, nhưng rồi lại khổ đau tột cùng khi nghĩ đến việc phải rời xa người yêu, “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, “Dù em nên vợ nên chồng/ Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Kiều vẫn muốn giữ lại chút tấm lòng, chút tình cảm sâu nặng giữa hai người, thể hiện lối suy nghĩ của một cô gái sắc sảo, thông minh

+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ý, Nguyễn Du đã tạo nên nhịp điệu của tâm trạng, của những nỗi đau đớn trong suy nghĩ của Kiều khi trao duyên.

+ Bên cạnh đó, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua những lời độc thoại nội tâm khéo léo.

III. Kết bài

– Đoạn thơ như một màn kịch về tâm trạng, nó không chỉ khai phá nội tâm con người mà còn khai phóng một con đường giải thoát tâm trạng bằng những thể nghiệm rất kịch tính, có sự diễn biến tâm trạng ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Nó đề cập được đến một bi kịch phổ biến của xã hội cũ: Thiên tình sử tan vỡ, tình chị duyên em.

– Cơ sở của bi kịch này này là sự hiện diện của con người cá nhân. Ta bắt gặp ở đây con người không chịu ru ngủ mình, mà là con người thức tỉnh, biết hi sinh vì người khác mà cũng biết thương mình, con người có khát vọng tình yêu cháy bỏng nhưng kết cục lại rất bi thương. Qua đó tâm trạng Thuý Kiều cho thấy sức cảm thông lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du với thân phận bi kịch và khát vọng tình yêu của con người.

Bài văn tham khảo 1:

Phân tích đoạn trích Trao duyên

  • Mở bài:

Truyện Kiều là kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du. Không những phản ánh sâu sắc bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội phong kiến đương thời, truyện Kiều còn là nỗi xót xa vô hạn, niềm cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với bi kịch cuộc đời của con người. Đặc biệt là người phụ nữ. Đoạn trích Trao duyên thể hiện sâu sắc bi kịch của nhân vật Thúy Kiều, mở đầu cho chuỗi bi kịch khốc liệt về sau của nàng.

  • Thân bài:

Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723 – 756 thuộc phần II (Gia biến và lưu lạc) của Truyện Kiều. Vì tên ván tơ vu oan, gia đình Kiều gặp sự biến lớn, cha và em bị quan phủ bắt giam. Để cứu cha và em thoát khỏi ngục tù và đòn roi tra tấn của bọn ác nhân, Thúy Kiều phải bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh. Trước khi ra đi, Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân và nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích là lời dặn dò, tâm sự của Thúy Kiều với em gái để nhờ em một việc hệ trọng trong tâm trạng đau đớn và tuyệt vọng.

Biết đây là một việc khó khăn, việc duyên là cả cuộc đời, đâu thể xem thương. Để Thúy Vân lắng nghe thấu rõ sự tình, Kiều đặt vấn đề thuyết phục để trao duyên tình cho em:

“… Cậy em em có chịu lời, 
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa“. 

Xưa nay, người ta chỉ trao nhau vật chất chứ có ai trao duyên bao giờ. Thế nhưng Thuý Kiều lại phải làm cái điều chưa ai từng làm ấy. Trong quan niệm của người xưa, “duyên tình” thường gắn liền với “đạo nghĩa”. Giữa Thuý Kiều và Kim Trọng đã có lời thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” thế nhưng “sự đâu sóng gió bất “, vì chữ “hiếu” mà nàng không thể giữ trọn lời thề với chàng Kim nên đành cậy nhờ Thuý Vân trả nghĩa hộ mình. Nguyễn Du đã rất tinh tế khi để Kiều dùng từ “cậy” mà không dùng từ “nhờ” vì “cậy” có ý tin chắc là người khác nhất định sẽ nghe mình. “Cậy” là hoàn toàn tin tưởng mà gửi gắm, hi vọng. Với thanh trắc. “Cậy” mang âm điệu nặng nề, gợi sự kì vọng, quằn quại, đau đớn. Từ “cậy” còn hàm chứa sự tin cậy, nương tựa, trông chờ hoàn toàn vào sự giúp đỡ của người khác. Sự kết hợp giữa nội dung và hình thức trong từ “cậy” giúp Thúy Kiều dễ dàng hơn khi thổ lộ điều khó nói và làm tăng tính thuyết phục của lời nói của mình.

Khác với từ “cậy”, chữ “nhờ” không thể bộc lộ hết được mục đích và tâm tư của Kiều. “Nhờ” không mang tính nghiêm trọng, cấp thiết và ràng buộc của sự việc. Người nghe có thể từ chối. Có lẽ,  Thúy Kiều đã cân nhắc rất kĩ lưỡng trước khi nói ra lời này.

Mặt khác, từ phía Thúy Vân, Thúy Kiều bắt phải “chịu lời” chứ không phải là “nhận lời“. “Chịu lời”“nhận lời” có vẻ như nhau nhưng “chịu lời” là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện hoặc một việc khó chối từ và bắt buộc phải thực hiện cho bằng được. Như vậy, “chịu” là bị bắt buộc, phải thông cảm mà chấp nhận. Từ “chịu” cũng gợi sự thiệt thòi của Thúy Vân. Thúy Vân còn thơ dại, chưa đủ lớn khôn để nhận làm việc ấy. Nhưng tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng quá lớn. Lại thêm hai người đã thề nguyền sánh đôi, có trời đất minh giám. Lời thề ấy biết bao người đã thấu rõ, vì danh dự của cả hai nên khó mà từ bỏ. Mặt khác, phụ tình chàng Kim là nỗi dằn vặt lớn đối với nàng. Dù biết sự tình khó khăn nhưng nàng cũng liều lĩnh nhờ cậy người em.

Sợ em từ chối, nàng chưa vội nói ra mà bắt Thúy Vân ngồi lên ghế trên rồi mới tỏ bày. Một lần nữa, Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ vô cùng kĩ lưỡng để cho Kiều thực hiện việc trao duyên của mình. Với người em nhỏ mà nàng mời “ngồi lên” ghế trên “cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Hành động ấy chỉ dành cho người bề trên khả kính mà thôi. Có thể thấy, đó là một hành động bất thường, Thúy Vân cũng nhận rõ điều bất thường ấy ở người chị của mình. Nàng cũng gắng gượng làm theo.

Trước hết, Kiều “lạy” để tạo không khí trang trọng, thiêng liêng và hé lộ việc đang cậy nhờ là vô cùng quan trọng. Đồng thời, “lạy”“thưa” còn hàm ẩn sự biết ơn đến khắc cốt ghi tâm của Thúy Kiều đối với em. Sự việc bất ngờ, phi lí mà rất hợp lí. Câu thơ chứa đầy nài nỉ, vạn xin, hạ mình hết mức, cho thấy được sự  tâm trạng quằn quại, đau đớn của Thúy Kiều. Trong tình thế đớn đau đến thế mà nàng vẫn tỏ ra thông minh, khôn khéo đến lạ thường. Bút pháp xây dựng tình huống và miêu tả của Nguyễn Du đạt đến độ tinh xảo hiếm thấy.

Sau lời ướm hỏi – thực chất là lời giao phó, Kiều đã thuật lại một cách vắn tắt nhưng khá đầy đủ về cảnh ngộ của mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai..”

Kiều diễn ta mối tình của mình: “đứt gánh tương tư”. Từ “đứt” thể hiện nỗi chua chát và oán than phân mình. Thành ngữ “đứt gánh tương tư” là cách nói giản dị nhưng đầy chua xót mối tình Kim-Kiều. Điển tích “keo loan chắp mối tơ thừa” vừa cách nói trang trọng lại vừa đắng cay.

Hai chữ “mặc em” khép lại màn dạo đầu nhưng lại mang hàm ý giao phó trách nhiệm một cách đinh ninh. Rõ ràng, Kiều ý thức rất rõ việc mình trao duyên cho em là một việc cần thiết, quan trọng. Nàng không chắc Thuý Vân đã nhận lời nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được cân nhắc kĩ càng. Không thấu hiểu, đồng cảm với nhân vật của mình, Nguyễn Du không thể viết những câu thơ với những từ đắt như thế.

Tiếp đến, Kiều nhắc về quá khứ khi gặp chàng Kim: “khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”. Điệp từ “khi” nhắc lại hết sức rõ ràng những tháng ngày đã qua, những niềm vui đã có, lời thề hẹn sánh đôi. Tình yêu ấy trãi qua biết bao ngày tháng em đẹp. Đó là một mối duyên tình tốt đẹp, hai người tâm đầu ý hợp, nguyện kết tóc se duyên trọn đời. Hạnh phúc tràn đầy, hứa hẹn một tương lai viên mãn.

Cách kể ngắn gọn, vắn tắt, đầy đủ thể hiện mối tình sâu đậm, thiêng liêng. Dù em có ưng thuận hay không thì nhất định em phải giúp chị làm điều nghĩa ấy. Kiều thấu hiểu hoàn cảnh của Vân và thương Vân vô cùng. Biết là vậy nhưng nàng đang đứng giữa hau lằn ranh lựa chọn” hoặc là vì chữ hiếu mà bán mình chuộc cha, hoặc là vì tình mà bất nghĩ vong ân. Đó là nghịch cảnh trớ trêu và Kiều đã vì chữ hiếu với cha mẹ mà hi sinh thân mình:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Kiều giãi bày tâm sự và hoàn cảnh để Thúy Vân thấu cảm, đồng thời đó cũng là sự bế tắc, tuyệt vọng của Kiều trên bước đường đời gian nan. Một sớm một chiều duyên tình đổ vỡ, phận mình rồi đây chẳng biết ra sao. Thân gái thuyền quyên chưa kịp hạnh phúc đã sớm bước vào biển đời gian truân. Kiều tha thiết van xin em, đồng thời cũng lí giải đôi bề, lí tình trọn vẹn:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Kiều chỉ ra rằng Thúy Vân vẫn còn trẻ, đẹp, son rỗi, tương lai rộng mở. Vân cũng chưa có hôn phu, chưa thề nguyền cùng ai, nghĩa là không có ràng buộc gì. Bởi thế mà hãy xót thương cho tình máu mủ thay chị làm tròn câu thề ước với Kim Trọng. Nàng còn lấy cái chết để khẳng định lòng biết ơn bất tận: ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Hơn một lời cầu xin, lời nói của Kiều bằng cả lí trí và tình cảm. Câu thơ cuối cùng cũng là nỗi xót xa vô hạn mà nàng đang phải gánh chịu. Cuộc đời từ đây đối với Thúy Kiều chẳng khác nào đã chết. Trái tim nàng đang khô cạn, hấp hối bởi vết thương quá khắc nghiệt. Lấy cái chết để thuyết phục em nhưng thực nàng cũng đang nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát. Đó là nỗi đau vô tận, sự tuyệt vọng đến cùng cực của Thúy Kiều khi đối diện với nghịch cảnh của mình.

Ngôn ngữ chọn lọc, có sự kết hợp của cách nói văn chương quý tộc và ngôn ngữ bình dân, cách nói khéo léo, chặt chẽ, có tình, có lí. Lời lẽ của nàng điềm tĩnh, rạch ròi, song dường như có sự kìm nén tình cảm và nỗi đau.

Sau những lời giãi bày đẫm đầy nước mắt, Kiều trao lại kỉ vật thề ước của hai người cho Thúy Vân trong đớn đau, nghẹn ngào:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Kỉ vật là “chiếc vành với bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”. Lời của Kiều chất chứa bao đau đớn, giằng xé, chua xót. Cách trao hết sức rõ ràng trong lời dặn dò kĩ lưỡng. Nàng phân biệt của tin (vật làm tin giữa Kim – Kiều) và của chung (của Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân). Khuyên em duyên thì hãy giữ còn vật thì là của chung. Nghĩa là trao duyên nhưng tình không thể trao.

Cách ngắt nhịp 4/4, khiến câu thơ vừa khoáng dạt vừa nghẹn uất, thể hiện sự luyến tiếc, đau đớn, bi kịch duyên trao đi mà tình không thể trao được. Đến lúc này tình cảm của Thúy Kiều bùng lên dữ dội lấn át lí trí. Nàng dứt khoát nhưng lại nấn ná, chính nàng lại mâu thuẫn với mình.

Kiều đau khổ tự xem như mình là người đã chết, xem mình là “người mệnh bạc“, người bất hạnh, không may mắn không thoát ra được như một định mệnh. Trao kỉ vật cho em mà lòng Kiều thổn thức, não nề, tiếc nuối và đau xót như vò xé tâm can, khi dòng tình cảm vẫn cuồn cuộn trong tâm hồn Kiều. Kiều còn dặn em những việc làm sau đó nữa. Mai sau dù có bao giờ tức là bất cứ lúc nào, mỗi khi đốt lò hương hay gõ lên phím đàn mà thấy đất trời nổi gió, nghĩa là hồn chị theo khói hương, theo tiếng đàng mà tìm về:

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.

Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió “ào ào đổ lộc rung cây” khi Kiều thắp hương bên mộ Đạm Tiên. Nàng đã hình dung số mệnh của mình chẳng khác gì Đạm Tiên, một kì nữ tài sắc mà mệnh bạc như vôi.

Kiều nói với Vân mà như đang nói với chính mình. Nhận ra bi kịch đau đớn, tuyệt vọng, nàng nghĩ đến cái chết. Một lần nữa, cái chết hiện về, có sức ám ảnh lớn lao đối với Thúy Kiều. Càng nói càng khổ đau, càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng. Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế khi từ lí trí đi đến lí trí, lấy tình cảm để thuyết phục tình cảm. Qua lời tâm sự tỏ bày thể hiện phẩm chất cao quý của Thúy Kiều. Dù trong nghịch cảnh đớn đau nhưng nàng rất chu đáo, có lòng khoan dung, độ lượng và giàu đức hi sinh, vị tha, luôn lo lắng, hiểu cho người trước khi nghĩ đến mình

Với hệ thống từ ngữ, hình ảnh và điển tích giàu sức biểu cảm: đốt hương, ngọn cỏ, lá cây, hiu hiu gió, hồn nặng lời thề, nát thân bồ liễu, dạ đài, cách mặt khuất lời, người thác oan thể hiện sâu sắc tâm trạng hoang mang cùng cực của Thúy Kiều. Đó là tiếng nói thương xót thân phận, gọi hồn trong Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Phản chiêu hồn của Nguyễn Du cho thấy nhà thơ quan tâm nhiều đến sự oan ức trong cái chết của những người bất hạnh – một phương diện độc đáo của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du.

Kiều bày tỏ tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng. Càng nhắc đến mối tình, Thúy Kiều càng đắng cay. Nàng tưởng tượng như đang nói lời tiễn biệt cùng Kim Trọng lúc này:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Thúy Kiều luôn ý thức về thực tại phũ phàng, trâm gãy gương tan, hoa trôi nước chảy của mình. Thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” là sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.  Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với người vắng mặt. Cách gọi Kim Trọng thân thiết, mến yêu: tình quân, kim lang, chàng; hành động: lạy để tạ lỗi với Kim Trọng và hàng loạt câu cảm thán, các từ cảm thán: “ôi”, “hỡi”, “thôi thôi” thể hiện sức chịu đựng tinh thần của nàng Kiều đã đạt tới đỉnh điểm, tất cả đều vỡ òa thành tiếng khóc và nỗi tuyệt vọng đến cùng cực. Mọi thứ dường như chấm dứt, bóng tối giăng khắp lối trên con đường nàng tiến về phía trước.

Trong đoạn trích, diễn biến tâm trạng của Kiều được thể hiện rõ nét qua các lời thoại. Về hình thức, ta thấy toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều với Thuý Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với Kim Trọng chứ không còn nói với Thuý Vân nữa; có lúc nàng tự nói với chính mình (những từ ngữ và hình ảnh gợi lại kỉ niệm tình yêu hoặc “Bây giờ…ái ân!” cũng là tự nói với mình). Thúy Kiều tưởng tượng trước mặt mình là Kim Trọng, nàng vật vã trong nỗi đau của tình duyên lỡ dở. Kiều không chỉ nghĩ đến nỗi đau khổ của mình mà còn nghĩ đến nỗi đau khổ của người yêu, nàng xót thương cho chàng Kim

  • Kết bài:

Với đoạn trích Trao duyên, Nguyễn Du tỏ ra là bậc thầy kiệt xuất trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Không những thấu hiểu những gì đang diễn ra bên trong tinh thần của Thúy Kiều, ông còn làm cho nó biểu hiện hết sức nghệ thuật, có tần có lớp hết sức thuyết phục và cảm động. Qua sự miêu tả trạng thái bấn loạn tinh thần của Thúy Kiều trong xung đột tinh thần đầy đau đớn, Nguyễn Du đã thể hiện nỗi xót xa của mình, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nàng Kiều.

Bài văn tham khảo 2:

Cảm nhận bi kịch tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên”

Có ý kiến cho rằng : “Trao duyên là khúc dạo đầu cho bản đàn bi thương, ai oán của cuộc đời Thúy Kiều…”. Xưa nay ấn tượng của mọi người khi tiếp cận đoạn trích “Trao duyên” (trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) bên cạnh sự trân trọng, ngưỡng mộ vẻ đẹp nhân cách Thuý Kiều, vẫn là xót xa, thương cảm trước bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng.

Khi tình yêu đầu đời vừa chớm nở, đang ở giai đoạn say đắm, mặn nồng thì vì gia đình gặp tai biến nàng đã phải hi sinh chữ tình vì chữ hiếu. Việc bán mình thu xếp xong xuôi, nàng đau xót nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi quyết định nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Duyên, đó là lẽ trời, đến và đi theo cái gọi là định mệnh. Gặp được người có duyên với mình là hạnh phúc cả đời. Vì thế, chữ duyên trong tình yêu càng lớn lao và quan trọng. Thế mà Thúy Kiều đã mang chữ “duyên” của mình trao gửi cho một người khác, dù là Thúy Vân… Cái lo lắng của Kiều là lo lắng cho người yêu sẽ phải lỡ làng. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân sẽ phải chắp mối “tơ thừa”.

Quá khứ là “muôn vàn ái ân” còn hiện tại là “trâm gãy gương tan”, là “tơ duyên ngắn ngủi”, là “phận bạc như vôi”,“nước chảy hoa trôi”. Quá khứ là mối tình mặn nồng còn hiện tại là tan vỡ, chia lìa. Đau đớn bủa vây, trái tim Kiều đang rỉ máu vì muôn vàn mũi dao cào xé. Nỗi đau ấy giờ vỡ òa, chất chứa trong lời than

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Ẩn chứa trong câu thơ là tiếng khóc, tiếng nấc đứt đoạn hướng về Kim Trọng. Dù đã tìm người trao duyên trả nghĩa nhưng tâm can Kiều vẫn dày xé cho rằng mình đã phụ bạc Kim Trọng.
Tuy nhiên, cũng có những cách nhìn khác về bi kịch bán mình, trao duyên của Thuý Kiều mà tôi muốn chia sẻ để mọi người cùng suy ngẫm.

Chúng ta đều biết bi kịch đầu tiên, cũng là nguyên nhân của chuỗi bi kịch trong cuộc đời Thúy Kiều là bán mình chuộc cha và em. Chỉ nhìn ở hành động, nàng quả là người hiếu nghĩa, sự hy sinh thật đáng ngợi ca! Nhưng xét theo mức độ sự việc thì hành động này phải chăng là biểu hiện của cách xử sự vội vàng, thiếu suy đoán.

Đối tượng vu oan chỉ là “thằng bán tơ” – kẻ thấp hèn, vô học trong xã hội; cha và em chỉ mới vào tù, chưa phân xử đúng sai, chưa gấp gáp, chưa đến cao trào sự đe dọa về tính mạng, thậm chí chưa được đưa ra công đường xét xử thì tại sao nàng vội vàng quyết định? Đáng lẽ ra, trước tình huống như thế, đầu tiên nàng phải dựa vào yếu tố chủ quan là sự thông minh, sắc sảo của mình để nghĩ ra trăm phương nghìn kế. Mặt khác, phải dựa vào yếu tố khách quan để hỗ trợ, cùng giải quyết, đối phó.

Là người coi trọng chữ tình, đã đặt niềm tin vào người yêu, tại sao nàng không tin báo, tìm gặp, chờ đợi Kim Trọng để cùng nhau tháo gỡ, bởi chàng Kim đã yêu và hẹn ước với nàng sâu sắc? Hơn thế, Kim Trọng là người có học, dòng dõi gia thế, việc làm rõ trắng đen trước “thằng bán tơ” vu oan có gì là khó, chàng sẽ là điểm tựa tinh thần cho gia đình nàng lúc này. Nàng có nghĩ đến sự dày vò, đau đớn của người thân trong sự ám ảnh suốt đời khi vì họ mà nàng phải hy sinh đến mức tột cùng như vậy không?

Mặt khác chưa thoát khỏi bi kịch tình yêu tan vỡ, Kiều lại rơi vào một bi kịch khác là bi kịch tước đi hạnh phúc của Thúy Vân. Cậy Thúy Vân kết duyên với chàng Kim, ở nhiều góc nhìn khác đã coi đây là cách bù đắp cho Kim Trọng, để Thúy Kiều đỡ day dứt khi phải chia ly mối tình của mình. Nhưng xét trong tình tiết truyện, ta nhận thấy, dù vô thức, đây là một sự ích kỷ, biến Thúy Vân thành vật hy sinh, suốt đời làm cái bóng bên Kim Trọng. Còn chàng Kim nằm trong sự trói buộc bị động, nể nang.

Màn đoàn viên sau mười lăm năm xa cách, Kim – Kiều đã “Tình xưa lai láng khôn hàn”, chỉ vì Kiều thẹn bởi “chữ trinh”“Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” chứ đâu phải vì giữ hạnh phúc cho Thúy Vân. Thử hỏi, trước cảnh “Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên” thì Thúy Vân liệu có còn chỗ hay không? Như thế, Thúy Vân trở thành cái bóng trong cuộc hôn nhân đáng ra không nên sinh ra và tồn tại.

Nguyễn Du đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Thúy Vân theo kiểu nhân vật chức năng và nhân vật Thúy Kiều theo kiểu nhân vật tâm lý nhằm tăng thêm tính bi kịch. Một bi kịch ứng xử vô thức trong sự tước đoạt hạnh phúc của người khác mà chính người trong cuộc cũng không hay biết, khi mà bản thân họ đang níu giữ lấy nó trong mọi hoàn cảnh.

Văn bản văn học chỉ trở thành tác phẩm văn học khi có sự tham gia, sự khám phá của độc giả. Độc giả chính là người đem lại chiều sâu ý nghĩa, “sinh mệnh” cho một tác phẩm văn học. Mỗi độc giả tuỳ theo lứa tuổi, vốn sống, nghề nghiệp…mà có những cách cảm nhận khác nhau về văn bản. Và trên đây cũng chỉ là một cách nhìn khác mang tính tham khảo về bi kịch của nàng Kiều.

»»» Xem thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang