Đọc hiểu văn bản tùy bút CHUYỆN CƠM HẾN (trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường) | Lớp 7

doc-hieu-van-ban-tuy-but-chuyen-com-hen

Đọc văn bản sau:

CHUYỆN CƠM HẾN

[…] Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!

[…] Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người “máu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!

Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, pho mát…, đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:

– Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ: Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!

Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người…

(Trích trong “Huế – Di tích và con người”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Đà Nẵng, 2003)

Trả lời các câu hỏi sau:

Câu 1. Xác định chủ đề của văn bản. Căn cứ vào đặc điểm nào em xác định chủ đề của văn bản?

Câu 2. Từ đoạn trích, hãy chỉ ra 2 đặc điểm/dấu hiệu để khẳng định văn bản “Chuyện cơm hến” thuộc thể loại tùy bút.

Câu 3. Nêu công dụng của dấu chấm lửng trong câu sau:

“Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, pho mát…, đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng, ăn trừ bữa”.

Câu 4. Chỉ ra và nêu nghĩa của một từ Hán Việt trong câu sau:

“Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản”

Câu 5. Chỉ ra và nêu nghĩa của một từ địa phương có trong câu sau:

“Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ: Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!”

Câu 6. Theo văn bản, khi vừa đi Tây về, nghe tiếng rao cơm hến, tâm trạng của tác giả như thế nào?

Câu 7. Xác định những từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trong đoạn sau:

“Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại…”

Câu 8. Từ nội dung văn bản, hãy đề xuất hai giải pháp góp phần lưu giữ các món ăn truyền thống của dân tộc.

* GỢI Ý TRẢ LỜI:

Câu 1.

– Chủ đề của văn bản: Qua việc ca ngợi món cơm hến Huế như một nét đẹp đặc sắc của văn hoá ẩm thực truyền thống, tác giả bộc lộ tình yêu tha thiết, sự trân trọng và niềm tự hào sâu sắc đối với văn hoá ẩm thực xứ Huế, đồng thời thể hiện ý thức tôn vinh, gìn giữ và phát huy các giá trị di sản văn hoá của quê hương.

– Căn cứ xác định:

  • Nhan đề: Chuyện cơm hến.
  • Nội dung văn bản tập trung miêu tả nguồn gốc, cách ăn, hương vị cơm hến.
  • Thể hiện rõ cảm xúc, suy ngẫm của tác giả về ẩm thực Huế và ý thức giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống.

Câu 2. Hai đặc điểm cho thấy văn bản thuộc thể loại tùy bút:

Văn bản ghi chép, miêu tả chân thực, sinh động về cơn hến Huế từ quan sát và hiểu biết thực tế của tác giả.

– Cái “tôi” tác giả xuất hiện rõ nét, bộc lộ trực tiếp cảm xúc, quan điểm cá nhân (“tôi rất ghét…”, “tôi nghĩ rằng…”).

– Kết hợp linh hoạt giữa tự sự, miêu tả, biểu cảm và bình luận, không bị ràng buộc bởi cốt truyện chặt chẽ.

– Chất trữ tình sâu đậm

Ngôn ngữ giàu hình ảnh, tinh tế và gần gũi đời sống

Câu 3. Dấu chấm lửng trong câu có tác dụng: biểu đạt ý còn nhiều sự vật, hiện tượng tương tự chưa liệt kê hết khi kết

Câu 4. HS nêu một trong số các từ Hán Việt: vấn đề, khẩu vị, bảo thủ, yếu tố, văn hoá, quan trọng, bảo toàn, di sản.

– Vấn đề: điều được nêu ra để xem xét, bàn luận hoặc cần giải quyết.

– Khẩu vị: sở thích về mùi vị, món ăn của mỗi người (mở rộng: thị hiếu, sở thích).

– Bảo thủ: giữ khư khư cái cũ, không chịu thay đổi hay tiếp thu cái mới.

Yếu tố: thành phần quan trọng cấu thành nên một sự vật, hiện tượng.

Văn hoá: toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử.

Quan trọng: có ý nghĩa lớn, giữ vai trò then chốt, không thể thiếu.

Bảo toàn: giữ cho được đầy đủ, không bị mất mát hay tổn hại.

– Di sản: những giá trị vật chất hoặc tinh thần do thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.

Câu 5.

– Từ địa phương: chi

– Nghĩa: (cách nói đặc trưng của người Huế/miền Trung).

Câu 6. Khi vừa đi Tây về, nghe tiếng rao cơm hến, tác giả có tâm trạng xúc động mạnh mẽ, nhớ da diết hương vị quê hương, cảm thấy gần gũi, thân thương và thèm khát món ăn truyền thống.

Câu 7.

– Từ ngữ, hình ảnh thể hiện cảm xúc:

  • “xúc động tận chân răng”
  • “ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn”
  • “tôi thấy làm ái ngại”

– Tác dụng: Thể hiện tình cảm sâu sắc, trân trọng, yêu thương của tác giả đối với cơm hến và người bán hàng Huế.

Câu 8. Hai giải pháp góp phần lưu giữ các món ăn truyền thống của dân tộc:

– Giữ gìn cách chế biến nguyên bản, tôn trọng hương vị truyền thống, tránh cải tiến tuỳ tiện làm mất bản sắc.

– Quảng bá và giáo dục văn hoá ẩm thực qua sách báo, du lịch, trường học để thế hệ trẻ hiểu, yêu và tự hào về món ăn dân tộc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang