Phân tích, đánh giá nghệ thuật bài thơ Tự trào của Nguyễn Khuyến

Bài thơ “Tự trào” của Nguyễn Khuyến là một bức chân dung tự họa mang tính chất trào phúng – hóm hỉnh, sâu sắc và đầy tính chiêm nghiệm. Bằng lối viết nhẹ nhàng, tự giễu, tác giả đã thể hiện nghệ thuật thơ đặc sắc qua nhiều khía cạnh, từ thể thơ, ngôn ngữ đến các biện pháp tu từ tiêu biểu.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, vốn có kết cấu chặt chẽ, song Nguyễn Khuyến đã vận dụng linh hoạt để thể hiện một giọng điệu tự trào, giễu cợt chính mình – một người từng đỗ đạt, có danh vọng, nhưng sống trong tâm thế bất mãn với thời cuộc. Giọng thơ nửa đùa, nửa thật, vừa như tự giễu mình, vừa như phản ánh sự ngao ngán, chua chát về thế thái nhân tình.

Ngôn ngữ giản dị, dân dã mà giàu hình ảnh và hàm nghĩa. Nhà thơ sử dụng lớp từ ngữ đời thường: “chẳng giàu”, “chẳng sang”, “gàn bát sách”, “chén mãi”, “mở miệng nói ra”… Cách dùng từ tự nhiên khiến bài thơ mang màu sắc dân gian và chất “người thật, việc thật”, tạo cảm giác chân thật, mộc mạc. Tuy vậy, đằng sau những từ ngữ tưởng chừng ngẫu hứng là cả một lớp nghĩa sâu sắc, thể hiện tâm trạng buồn vui lẫn lộn, vừa tự giễu, vừa trăn trở.

Biện pháp đối lập, tương phản được sử dụng ngay từ đầu: “chẳng giàu” – “chẳng sang”, “chẳng gầy” – “chẳng béo”, gợi lên hình ảnh một con người “làng nhàng”, không nổi trội. Các ẩn dụ như “cờ”, “bạc” cũng được dùng để nói về cuộc đời và vận mệnh, cho thấy tư duy sâu sắc và tài dùng hình ảnh quen thuộc để biểu đạt triết lý sống. Câu thơ “mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng” – vừa là lời tự nhận, vừa là một cách mỉa mai chính bản thân và chế độ khoa cử danh vọng.

Nghệ thuật trào phúng sâu sắc, nhẹ nhàng mà sâu cay. Ônh vừa chế giễu chính mình vừa chế giễu cuộc đời với nụ cười sâu cay, đầy chua chát. Bài thơ mang vẻ đùa vui nhưng ẩn chứa tâm trạng bất lực, bất mãn với thời thế, và sự lựa chọn rút lui khỏi chốn quan trường nhiễu nhương, phản ánh tư cách thanh cao và khí phách của nhà nho ẩn dật. Dưới lớp vỏ “tự trào”, Nguyễn Khuyến đã phản ánh hiện thực xã hội rối ren, giới quan lại bất tài, và những kẻ thức thời mà vô liêm sỉ đang thao túng triều chính. Việc ông rút lui về quê không chỉ là thoái lui cá nhân, mà còn là thái độ phản kháng thời cuộc bằng sự “cười cợt” sâu cay. Ẩn sau vẻ buông xuôi là sự khinh bỉ sâu sắc trước lối sống giả tạo của nhiều người trong xã hội đương thời.

Với giọng điệu tự trào, ngôn ngữ dân dã, hình ảnh gần gũi mà giàu sức gợi, Nguyễn Khuyến đã tạo nên một bài thơ vừa hóm hỉnh, vừa đầy nỗi niềm. Đằng sau tiếng cười tự giễu là nỗi ngậm ngùi, xót xa của một nhà nho sống giữa thời loạn, bất lực trước thời cuộc và danh lợi. Bài thơ không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn phản ánh một nhân cách trí thức cao quý: khiêm nhường, tỉnh táo và sâu sắc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang