Cảm nhận ý nghĩa cái giật mình trong bài thơ Ánh trăng
Bài làm 1:
- Mở bài:
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy không chỉ là một khúc trữ tình đầy cảm xúc, mà còn là một lời tự nhắc thấm thía về mối quan hệ giữa con người và quá khứ, giữa hiện tại và những giá trị bền vững của đời sống tinh thần. Qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng”, bài thơ khơi dậy những hồi tưởng đầy chất thơ, đồng thời khiến người đọc chợt lặng người trước cái “giật mình” – một cú chấn động nhẹ nhưng sâu của lương tri, khi con người đối diện với chính mình trong khoảnh khắc im lặng mà đầy thức tỉnh.
- Thân bài
1. Trăng – hình ảnh của quá khứ thân thương và gắn bó
Từ thuở thơ ấu nơi làng quê cho đến những năm tháng sống giữa rừng sâu thời chiến, trăng là người bạn thủy chung luôn hiện diện trong cuộc sống của tác giả. Vầng trăng trở thành biểu tượng của thiên nhiên thuần khiết, của những kỷ niệm chan chứa nghĩa tình và là chứng nhân cho một quá khứ giản dị nhưng cao đẹp:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Trăng – hình ảnh thơ mộng – được Nguyễn Duy gắn liền với tuổi thơ hồn nhiên và cuộc sống lính gian lao nhưng nghĩa tình. Những câu thơ như dòng chảy ký ức, nhẹ nhàng và sâu sắc, khiến người đọc cảm nhận rõ mối quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên, giữa người lính và ánh trăng tình nghĩa.
2. Sự lãng quên trong hiện tại đủ đầy
Sau chiến tranh, khi cuộc sống đổi thay, con người rời xa thiên nhiên và dần bị cuốn vào vòng xoáy tiện nghi đô thị. Chính lúc ấy, những điều từng một thời gắn bó máu thịt lại bị bỏ quên, bị gạt ra ngoài tâm trí như một “người dưng qua đường”:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Ánh điện thay thế ánh trăng, gương kính phản chiếu vẻ ngoài bóng bẩy hơn là nội tâm lắng đọng. Sự quên lãng ấy không phải là cố ý, nhưng lại gợi lên nỗi buồn và nuối tiếc khôn nguôi. Vầng trăng – biểu tượng của ký ức – vẫn đi ngang đời sống hiện tại, nhưng con người đã vô tình không nhận ra sự hiện diện âm thầm ấy.
3. Cuộc hội ngộ bất ngờ và sự lay động sâu sắc
Sự cố mất điện đột ngột trong đêm làm nên bước ngoặt cảm xúc. Trong bóng tối, ánh trăng tròn bỗng hiện ra như một nhân chứng lặng lẽ của quá khứ, khiến con người buộc phải đối diện với chính mình:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khoảnh khắc “ngửa mặt lên nhìn mặt” chính là điểm nút của cảm xúc – nơi ký ức ùa về trong sự xúc động sâu sắc, khiến nhà thơ “rưng rưng” khi chợt nhận ra mình đã từng hờ hững, vô tâm:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Các phép so sánh đồng hiện: đồng – bể – sông – rừng như dội về những thước phim ký ức sống động, làm đầy trỗi dậy cảm giác xót xa và ăn năn. Vầng trăng không chỉ là ánh sáng dịu dàng của thiên nhiên, mà còn là ánh sáng của lương tâm, soi tỏ nỗi niềm sâu kín nhất trong lòng người.
4. Cái “giật mình” – sự thức tỉnh của lương tri
Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng một nốt lặng, nhưng đó là nốt lặng có sức vang dội, gợi mở tầng sâu của ý nghĩa:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là biểu tượng cho sự thủy chung, bền bỉ, bao dung của những giá trị xưa cũ. Dù bị lãng quên, trăng vẫn vẹn nguyên, không trách cứ. Sự “im phăng phắc” ấy không phải là im lặng vô nghĩa, mà là một sự im lặng đáng sợ – nó buộc con người phải tự chất vấn, tự đối diện với bản thân.
Cái “giật mình” ở đây không chỉ là phản xạ cảm xúc, mà là sự tỉnh ngộ của tâm hồn. Đó là cú va đập âm thầm của ký ức và hiện tại, khiến con người nhận ra sự vô tình của chính mình, nhận ra mình đã rời xa quá khứ nghĩa tình để chạy theo ánh sáng đô thị hoa lệ. Đó là sự thức tỉnh của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” – một nền tảng văn hóa sống của dân tộc Việt.
5. Cái “giật mình” – lời nhắc nhở nhân sinh sâu sắc
Cái “giật mình” mang tính biểu tượng lớn hơn khuôn khổ cá nhân. Nó không chỉ dành cho nhà thơ mà còn dành cho tất cả chúng ta – những người đang sống trong thời đại vật chất, dễ quên, dễ bỏ lại phía sau những điều tưởng chừng không thể mất.
Đó là lời cảnh tỉnh về cách sống: phải biết trân trọng quá khứ, giữ gìn những giá trị tinh thần, sống tình nghĩa và biết tri ân. “Giật mình” để nhớ lại, để hối lỗi, để sửa mình – và cuối cùng, để sống tốt đẹp hơn.
- Kết bài:
Với hình ảnh vầng trăng giản dị nhưng giàu chất biểu tượng, cùng nghệ thuật dựng tình huống độc đáo, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã tạo nên một dư âm sâu lắng về lương tri và đạo đức con người. Cái “giật mình” cuối bài thơ không đơn thuần là cảm xúc cá nhân, mà là thông điệp gửi đến tất cả: trong guồng quay tất bật của cuộc sống hiện đại, đừng bao giờ để mất đi những điều thiêng liêng đã từng là máu thịt của mình. Ánh trăng chính là ánh sáng âm thầm nhưng bền bỉ của quá khứ, luôn nhắc nhở con người biết sống sâu sắc, sống có nghĩa, có tình, có thủy chung.
Bài làm 2:
Ý nghĩa cái “giật mình” trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
- Mở bài:
Bài thơ “Ánh trăng” là một trong những tác phẩm nổi bậc của Nguyễn Duy giai đoạn sau chiến tranh. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa. Cái “giật mình” ở cuối bài thơ là tiếng vọng của lương tâm, sự thức tỉnh linh hồn con người trước quá khứ nghĩa tình, thủy chung.
- Thân bài:
Trăng vốn gắn bó với con người từ lúc bé thơ ở đồng quê, cho đến khi lên rừng chiến đấu. Thế nhưng, “từ hồi lên thành phố”, con người đã vô tình lãng quên. Sự cố mất điện tạo ra duyên cớ để con người hội ngộ với người bạn năm xưa. Khi “vội bật tung của sổ”, con người bất ngờ đối mặt với vầng trăng, một cố nhân năm nào. Ngay lúc “ngửa mặt lên nhìn mặt”, sau chuỗi dài cảm xúc, bất giác nhà thơ nhận ra những đổi thay của mình, thảng thốt giật mình hối hận, tiếc nuối khi thấy mình đã bội bạc, vô tình với quá khứ:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình” .
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung và nhân hậu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái “im phăng phắc” của vầng trăng đã đánh thức lương tâm con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Tác giả giật mình để tự nhắc nhở mình hãy biết sống tình nghĩa, thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
Có thể thấy, cái “giật mình” trong đoạn thơ là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” ấy chính là của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” cũng là sự tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. “Giật mình” để thức tỉnh, bừng tỉnh, nhìn lại những hạn chế của chính bản thân mình, từ đó vươn lên hoàn thiện nhân cách.
Như vậy, con người “giật mình” trước ánh trăng chính là sự bừng tỉnh của nhân cách, sự thức tỉnh của lương tri, lương năng và lương tâm; là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp và thuần khiết nhất. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp tâm hồn và nhân cách con người. Cái “giật mình” của nhân vật còn có sức lan toả cảm xúc, có thể làm người đọc “giật mình” nhận ra những điều ý nghĩa khác trong cuộc sống.
- Kết bài:
Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu, đồng thời củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Bài làm 3:
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
- Mở bài:
Trăng là hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay
- Thân bài
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy. Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
1. Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ: Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh (khổ 1, 2):
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷTrần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng.
Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của thiên nhiên .Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được.
Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy.
2. Hình ảnh vầng trăng bất ngờ xuất hiện trong hiện tại (khổ 3):
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết.
Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chình là tình cảm con người.
3. Hình ảnh vầng trăng khi gặp lại con người (khổ thơ 4 + 5):
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừngThình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Tường như con người và trăng sẽ mãi mãi không bao giờ nhìn nhận nhau nữa. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải đối mặt: (Thình lình….trăng tròn). Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra người bạn tri kỉ năm xưa của mình . “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng”
Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ”. Người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình Bao kỉ niệm đẹp của một đời người ùa về chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông với rừng.
Tác giả sử dụng cấu trúc câu thơ song hành, biện pháp tu từ so sánh, điệp từ ”là” cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Đoạn thơ hay ở bộc bạch chân thành, tính biểu cảm cao, ngôn ngữ và hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn nói với chúng ta nhẹ nhàng mà thấm thía.
4. Sự thức tỉnh lương tâm của con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
- Kết bài:
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Bài thơ ”Ánh trăng” với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Bài thơ hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lý về cuộc sống và cả sự thức tình đến toàn xã hội của chúng ta.
Xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
- Thông điệp từ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy làm mỗi chúng ta không khỏi “giật mình”
- Cảm nghĩa về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
- Qua khổ thơ 3 bài thơ Ánh trăng, cảm nhận sự vô tình của con người khi hoàn cảnh thay đổi