Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
TÔN QUANG PHIỆT dịch
(Theo Văn thơ Phan Bội Châu chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội, 1967)
Dàn bài 1:
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Phan Bội Châu
– Giới thiệu chung về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
II. Thân bài:
1. Hai câu đề: Quan niệm mới về chí làm trai
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
– Làm trai phải mong có sự “lạ ở trên đời” nghĩa là phải có lí tưởng sống, lẽ sống lớn lao, cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường hiển hách. Không chấp nhận sự nhợt nhạt, tầm thường.
– Đã làm thân trai thi không để trời đất tự xoay vần cuộc đời mình, con người phải tự tạo ra cuộc đời, thời thế của mình, giành lấy thế chủ động để tự quyết định số phận của mình. Giọng điệu tự tin, táo bạo của một con người khẩu khí
→ Hai câu thơ thể hiện tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở mức độ và tài năng của mình. Đây cũng có thể coi là tuyên ngôn về chí làm trai.
2. Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?”
– “trăm năm” là khoảng thời gian ước lệ nói về cuộc đời của mỗi con người, cũng có ý chỉ thế kỉ nhiều biến động.
– “cần có tớ”: phải có ta. Tác giả tự xưng bản thân mình là “ta” một cách ngạo nghễ.
– “há không ai”: câu hỏi hướng đến thế hệ tiếp nối sau này, đặc biệt là thế hệ thanh niên đang mang tâm lí hoang mang, bế tắc.
→ Hai câu thơ thể hiện ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước thời cuộc, ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của cá nhân đối với vận mệnh trăm năm. Ông là người sớm giác ngộ cách mạng, người yêu nước điển hình, ông có đủ dung khí để đi theo con đường mình đã chọn. Ông lo lắng không biết thế hệ sau có nhận thức được như mình hay không?
3. Hai câu luận: Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!”
– Tác giả nhận thức về thực trạng của đất nước “non sông đã chết”, đất nước đã chết, rơi vào tay kẻ khác, chỉ còn là “cái xác không hồn”. Tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc của mình “sống thêm nhục”. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước. Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã viết: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”
– Phan Bội Châu thể hiện thái độ không cam chịu khi nhận thức được nỗi nhục mất nước: “Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!”. Ông phủ nhận nền học vấn nho học, nhận ra con đường khoa cử là vô ích. Người cách mạng cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc, hành động cởi mở, luôn tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước trì trệ, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.
4. Hai câu kết: Khát vọng hành động, tư thế buổi lên đường
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
– Tác giả dựng bối cảnh kì vĩ, hiện lên qua hình ảnh thơ “vượt bể Đông theo cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”. Từ hình ảnh đó làm nổi bật lên tư thế của con người đầy lẫm liệt, oai phong “nhất tề phi” (cùng bay lên), một tư thế của con người đang vượt lên hiện thực đầy tăm tối của thời cuộc, tư thế sánh ngang vũ trụ của con người.
→ Hai câu thơ thể hiện khát vọng hành động: ra đi tìm đường cứu nước
III. Kết bài:
– Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
– Rút ra bài học và liên hệ đến thế hệ trẻ hôm nay.
Dàn bài 2:
I. Mở bài:
– Phan Bội Châu là chí sĩ yêu nước lớn nhất của dân tộc ta đầu thế kỉ XX. Văn chương của ông có hình thức cổ điển nhưng vẫn mới mẻ. Đó là vũ khí để tuyên truyền cổ động, thơ văn ông đã làm rung động biết bao con tim yêu nước.
– Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 trước lúc tác giả sang Nhật Bản tìm một con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để giã từ bè bạn, đồng chí. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng với tư tưởng lớn lao, bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước. Một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, khắc tạc vào lịch sử hình tượng vị anh hùng ra đi tìm đường cứu nước.
II. Thân bài:
* Hai câu đề:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
– Trước hết câu thơ vẫn nói đến chí nam nhi, một quan niệm nhân sinh phổ biến thời phong kiến: nam nhi phải làm nên nghiệp lớn xưng danh với thiên hạ, phải lạ ở trên đời. Như cụ Nguyễn Công Trứ từng viết: “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông”.
– Thế nhưng trong quan niệm của mình cụ Phan đã có điểm nhìn mới mẻ, sáng tạo hơn: “Há để càn khôn tự chuyển dời”.
+ Thời xưa, người ta thường phó mặc cuộc đời cho hai chữ số phận, mệnh người do trời định đoạt. Nhưng với cụ Phan làm trai sao lại để như vậy, phải tự mình chủ động xoay chuyển thời thế (đặt trong hoàn cảnh hiện tại câu thơ ngụ ý nói tới việc tìm đường cứu nước).
+ Hình thức câu hỏi tu từ khiến câu thơ xoáy sâu và tâm trí người đọc đặc biệt là các đấng nam nhi.
* Hai câu thực:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
– Tác giả đã thể hiện rõ cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm gánh vác giang sơn, đồng thời mang ý kích lệ ý thức này ở các trang nam nhi.
– Một người sống vì dân vì nước tên tuổi sẽ lưu truyền ngàn năm.
→ Hai câu thơ cụ thể hóa lẽ sống của trang nam nhi: phải tự giác chủ động, lưu danh thiên cổ. Đồng thời thúc giục mọi người sống có ích.
* Hai câu luận:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
– Chí nam nhi được gắn chặt vào hoàn cảnh hiện tại của đất nước:
+ Hiện lên trong câu thơ là nỗi đau mất nước, nỗi nhục của thân phận nô lệ cùng sự phản kháng ngầm, không cam chịu (sống thêm nhục).
+ Trung quân ái quốc là tư tưởng đạo đức nho gia nhưng hiện nay còn đâu vua hiền mà trung, sách vở thánh hiền đâu cứu được thời buổi nước mất nhà tan nàyè câu thơ thức tỉnh hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước.
– Bằng sự quyết liệt táo bạo của nhà cách mạng đi trước thời đại Phan Bội Châu đang đối đầu, phản bác trực tiếp nền học vấn cũ, thức tỉnh những chí sĩ yêu nước.
* Hai câu kết:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
– Những hình ảnh kì vĩ, lớn lao: Biển Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc phù hợp với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của chủ thể trữ tình.
– Câu thơ cuối chứa đựng một hình ảnh hào hùng lãng mạn thể hiện tư thế, khát vọng lên đường của người chí sĩ yêu nước, khơi gợi được nhiệt huyết cả một thế hệ.
* Nhận xét, đánh giá:
– Với thể thơ thất ngôn bát cú luật bằng vừa nhịp nhàng vừa cứng cỏi; hình ảnh sinh động và sức truyền tải cao; ngôn ngữ thơ bình dị mà có sức lay động mạnh mẽ, giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn, bài thơ khẳng định lý tưởng yêu nước cao cả, nhiệt huyết, sôi sục, khắc họa đậm nét tư thế đẹp đẽ và khát vọng lên đường cháy bỏng của chí sĩ cách mạng.
III. Kết bài:
– Với giọng thơ hào sảng, hình ảnh giàu sức gợi, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một khúc tráng ca đầy khí phách của bậc anh hùng. Dư âm của bài thơ không chỉ vang vọng trong lòng người đương thời mà còn tiếp tục truyền cảm hứng mạnh mẽ cho hậu thế. Đó là bản tuyên ngôn không chỉ của riêng Phan Bội Châu, mà còn của cả một thế hệ yêu nước, sẵn sàng dấn thân vì dân tộc.
Dàn bài 3:
- Mở bài:
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 khi Phan Bội Châu lên đường sang Nhật để tìm đường cứu nước. Tác phẩm thể hiện chí khí, hoài bão lớn lao của một nhà cách mạng, đồng thời thể hiện tư tưởng yêu nước mãnh liệt, khát vọng hành động để giành lại độc lập cho dân tộc.
Thân bài:
1. Tư tưởng hành động và chí khí nam nhi
Hai câu thơ đầu:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Phan Bội Châu khẳng định tư thế của bậc nam nhi trong cuộc đời. “Làm trai” không chỉ đơn thuần là giới tính mà còn mang hàm ý về trách nhiệm và vai trò của người đàn ông đối với vận mệnh đất nước. Tác giả cho rằng sống trên đời phải làm được điều phi thường, không thể thụ động để “càn khôn tự chuyển dời”, tức là không để trời đất vận hành một cách tự nhiên mà không có sự can thiệp của con người. Đây là tư tưởng nhập thế mạnh mẽ của Nho giáo, kết hợp với tinh thần hành động của nhà cách mạng.
2. Khẳng định vai trò của cá nhân trước thời cuộc
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Hai câu thơ thể hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ của Phan Bội Châu. “Trăm năm” là khoảng đời người, “muôn thuở” là thời gian dài lâu, tác giả tự đặt mình vào dòng chảy lịch sử và khẳng định rằng mỗi người sinh ra đều phải có vai trò, không thể sống vô nghĩa. Câu hỏi tu từ “Há không ai?” vừa là lời tự vấn, vừa là lời kêu gọi những người cùng chí hướng đứng lên hành động vì nước.
3. Nhận thức về hiện thực đau thương của dân tộc
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Hai câu thơ thể hiện nỗi đau của Phan Bội Châu trước thực trạng nước mất, dân lầm than. Ông cho rằng khi đất nước đã bị mất chủ quyền, nếu cứ sống một cách thụ động thì đó là điều nhục nhã. Câu thơ “Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!” bộc lộ sự bất mãn với nền giáo dục Nho học lúc bấy giờ, khi mà việc học không còn giúp ích gì cho công cuộc cứu nước. Đây là tư tưởng tiến bộ khi Phan Bội Châu nhận ra rằng con đường cứu nước không thể dựa vào sách vở thánh hiền mà phải hành động thực tế.
4. Khát vọng ra đi tìm đường cứu nước
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu kết thể hiện khát vọng cháy bỏng của tác giả khi lên đường ra đi tìm chân lý. “Vượt bể Đông” là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho hành trình cách mạng đầy gian nan nhưng cũng tràn đầy hy vọng. Hình ảnh “muôn trùng sóng bạc” không chỉ tả thực về biển cả mênh mông mà còn gợi lên khí thế mạnh mẽ, quyết liệt của người ra đi với lý tưởng lớn.
III. Kết bài:
– Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương không chỉ là lời tiễn biệt mà còn là tuyên ngôn đầy khí phách của một bậc chí sĩ yêu nước. Qua đó, Phan Bội Châu khẳng định vai trò của cá nhân trong thời đại, khơi gợi tinh thần hành động để giành lại độc lập cho dân tộc. Bài thơ không chỉ có giá trị lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ sau về lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm đối với Tổ quốc.
Bài văn tham khảo 1:
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
- Mở bài:
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905, trước khi tác giả sang Nhật tìm đường cứu nước. Bài thơ không chỉ là lời giã biệt bè bạn, đồng chí, mà còn là tuyên ngôn đầy hào khí và tư tưởng cách mạng mới mẻ. Qua đó, người đối diện với nỗi nhục mất nước không cam chịu mà quết tâm hành động, khẳng định vai trò cá nhân trước thời cuộc.
- Thân bài:
1. Quan niệm về chí làm trai
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Phan Bội Châu đã kế thừa và phát triển quan niệm chí làm trai của Nho giáo, nhưng ông đã mang đến một cách nhìn mới mẻ hơn. Thay vì phó mặc cuộc đời cho số phận, ông kêu gọi người nam nhi phải dám tự mình xoay chuyển thời cuộc. Hình thức câu hỏi tu từ góp phần nhấn mạnh sự thực tỉnh và kích lệ tinh thần hành động.
2. Trách nhiệm cá nhân trước vận mệnh dân tộc
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?
Tác giả ý thức rõ trách nhiệm cá nhân trước vận mệnh dân tộc, đồng thời thúc giục những người trẻ khác hãy dấn thân. Lời thương khuyên trong câu hỏi tu từ tạo nên tác động mạnh mẽ, gọi dậy tâm hồn những ai còn do dự, e ngại.
3. Nỗi nhục mất nước và tư duy cách mạng
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Tác giả không ngần ngại chỉ ra nỗi nhục mất nước, coi đây là điều đáng hổ th th\u1ebn nhất. Đồng thời, ông phê phán nền giáo dục Nho học đã lỗi thời, không thể giúp giành lại độc lập. Qua đó, Phan Bội Châu kêu gọi một tinh thần hành động mới, quyết liệt và tích cực hơn.
4. Khát vọng lên đường cứu nước
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hình ảnh “biển Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc” tượng trưng cho khát vọng lên đường cháy bỏng và tinh thần đột phá. Tác giả không chỉ quyết tâm ra đi mà còn mong muốn trở thành người dẫn lối cho dân tộc.
- Kết bài:
“Lưu biệt khi xuất dương” không chỉ là lời giã biệt mà còn là tuyên ngôn chí khí đầy hào hùng của Phan Bội Châu. Bài thơ đã khắc họa rõ nét tinh thần yêu nước mãnh liệt, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn và ý chí cách mạng phi thường của một nhà chí sĩ. Với ngôn ngữ hào sảng, hình ảnh mạnh mẽ, tác phẩm không chỉ thể hiện tâm huyết của riêng Phan Bội Châu mà còn truyền cảm hứng cho bao thế hệ người Việt Nam về tinh thần dấn thân vì nước.
Bài văn tham khảo 2:
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
- Mở bài:
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là lãnh tụ kiệt xuất của các phong trào Duy Tân, Đông Du, Việt Nam quang phục hội đầu thế kỉ XX. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, được đồng bào tôn kính”. Năm 1905, mở đầu phong trào Đông Du, Phan Bội Châu xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản tìm đường cứu nước. Trong không khí chia tay với các đồng chí trong Hội Duy Tân, Phan Bội Châu sáng tác bài “Lưu biệt khi xuất dương”.
- Thân bài:
Mở đầu bài thơ, tác giả nêu lên quan niệm về chí nam nhi:
“Sinh vi nam tử yếu vi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời).
Phan Bội Châu nêu lên quan niệm về chí làm trai mà các nhà nho trứ danh đều đồng tình. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Chí nam nhi” cũng từng nói: “Thông minh nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kì”. Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kì tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp bể: “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn nhu vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để còn khôn tự chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động của con người đối với vũ trụ như vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ làm thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?)
Trong một nền văn học phi ngã (tôi) mà hiện lên một chữ “ngã” sừng sững, phải nói là “kì” (lạ); “Ư bách niên trung tu hữu ngã”. Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái “tôi” như thể, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng, cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng” (Nguyễn Đình Chú).
Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên tài hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để khẳng định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người ta, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, tác giả càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền:
“Giang sơn tử sĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)
Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang sơn” (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng: “Non sông đã chết sống thêm nhục”. Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có nhà Nho nào nói một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc vĩ đại.
Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ: “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”. Câu thơ nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”, (Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi). Viết như vậy thì đúng như cụ Huỳnh Thúc Kháng nói “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không nên hiểu là cụ Phan phủ định sách của thánh hiền, mà nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Mà có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào dạy các đệ tử ngồi “tụng” sách của quý vị trong khi nước mất dân nô lệ đâu?
Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề :
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn: “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch hay, xứng với tinh thần của nguyên tác. Nhưng câu kết “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” thì được cái tình của non nước đối với người ra đi, chứ không sát với nguyên tác.
“Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ là không vỗ vào bở mà “nhất tề phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăn hoa của nhà thơ mà cũng là nhà cách mạng.
- Kết bài:
Muốn hiểu được nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang trước tác của cụ thì tốt hơn hết là đọc bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương”. Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước.
“Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành Tân, lỏi len đường mới.
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê.
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói.”
Đấy là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh của cả hai cụ Phan, hai tâm hồn yêu nước lừng danh trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, giai đoạn đầu của thế kỉ này.
Bài văn tham khảo 3:
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
- Mở bài:
Phan Bội Châu (1867 – 1940), là sĩ phu yêu nước nổi bậc nhất của phong trào cách mạng Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” được sáng tác khi tác giả từ biệt bạn bè để sang Nhật tìm kiếm con đường cứu nước. Bằng giọng thơ đầy nhiệt huyết, sôi nổi và giàu sức thuyết phục, bài thơ đã khắc hoạ thật trân trọng vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của bức chân dung nhà cách mạng Phan Bội Châu những nãm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
- Thân bài:
Văn học trung đại có loại thơ để nói chí, tỏ lòng (“Thi dĩ ngôn chí”). Bài thơ này cũng bộc lộ trực tiếp chí khí, hoài bão của tác giả. Nó rất gần với “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ,… Điều đặc biệt là chính cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả đã minh chứng cho lí tưởng sống cao đẹp trong thơ. Thơ là gan ruột, là tâm huyết của họ. Họ đã trải nghiệm tất cả những điều đó bằng chính cuộc đời của mình trước khi biểu hiện trong văn chương.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là vào lúc tình hình chính trị trong nước hết sức rối ren. Chủ quyền đất nước đã hoàn toàn mất vào tay giặc, phong trào vũ trang chống thực dân Pháp theo con đường Cần vương đã thất bại không có cơ cứu vãn, chế độ phong kiến đã cáo chung, bao anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước đã hi sinh,… Tình hình đó đặt ra trước mắt các nhà yêu nước một câu hỏi lớn, đầy day dứt: phải cứu nước bằng con đường nào?
Tiếp thu những tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài đang tràn vào Việt Nam ngày càng mạnh qua con đường Trung Hoa, Nhật Bản và trực tiếp từ Pháp, từ các nước phương Tây, trong hoàn cảnh con đường cứu nước đang bế tắc, các nhà nho ưu tú của thời đại như Phan Bội Châu đã say sưa với một hướng đi mới bất chấp nguy hiểm, gian lao mong tìm ra ánh bình minh cho Tổ quốc.
“Lưu biệt khi xuất dương” là lẽ sống mới, là khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Hai câu thơ khẳng định một lẽ sống đẹp của bậc trượng phu. Phải lạ nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc kinh thiên, động địa, xoay chuyển “càn khôn”, chứ không thể sống tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo số phận, chịu để con tạo xoay vần. Đây là một lẽ sống đẹp, cao cả, gần gũi với lý tưởng nhân sinh của các nhà Nho truyền thống nhưng mạnh mẽ và táo bạo hơn.
Cảm hứng và ý thơ của Phan Bội Châu gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà nho thuở trước:
“Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Nguyễn Công Trứ)
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao)…
(Nguyễn Gia Thiều)
Con người dám đối mặt với cả trời đất (càn khôn), cả vũ trụ để tự khẳng định mình, vượt hẳn lên cái mộng công danh gắn với hai chữ hiếu, trung để vươn tới những lí tưởng nhàn quần, xã hội rộng lớn và cao cả hơn nhiều.Lí tưởng sống ấy đã tạo cho con người một tư thế mới, sánh ngang tầm vũ trụ.
Điểm mới mẻ của Phan Bội Châu là vượt lên giấc mộng công danh thường gắn liền với hai chữ trung quânđể vươn tới những lý tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn cao cả (bởi đời ở đây chính là cuộc đời, cũng chính là xã hội). Con người dám đối mặt với cả đất trời, vũ trụ để tự khẳng định mình. Phải tự mình xoay chuyển đất trời, xoay chuyển tình thế, quyết định thời cuộc, thực hiện khát vọng lớn lao, không chịu khuất phục trước thực tại, trước số phận, trước hoàn cảnh.
Giọng thơ rắn rỏi + nhịp 2/4 rồi 4/2, ý tưởng táo bạo bạo, một quyết tâm cao và niềm tự hào của đông nam nhi. Lý tưởng sống này tạo cho con người một tầm vóc, một tư thế mới: khỏe khoắn, ngang tàng, dám ngạo nghễ thách thức với càn khôn.
Nếu như hai câu đầu là một mở đề thì hai câu thực kế tiếp triển khai cụ thể cái tư tưởng về “chí làm trai” ấy. “Chí làm trai” của Phan Bội Châu gắn với ý thức về cái “tôi”, nhưng không phải là cái “tôi” cá nhân mà là một cái “tôi” công dàn đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ”.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?)
Cái tôi của tác giả xuất hiện qua từ “ngã”, được dịch thoát ý là “tớ” trong bản dịch thơ. Nguyên tác: “hữu ngã” (có ta”), bản dịch: “tớ” tuy làm thay đổi âm điệu câu thơ nhưng lại mang đến sự trẻ trung, hóm hỉnh. Ý thơ thể hiện thái độ hăm hở của nhân vật trữ tình ra đi tìm đường cứu nước. Cái tôi xuất hiện ở đây không phải là cái tôi riêng tư nhỏ bé mà là cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm với cuộc đời. Cuộc đời cần có ta không phải để hưởng lạc thú mà để cống hiến cho đời, sao cho đáng mặt nam nhi đại trượng phu tung hoành thiên hạ. Đây là lời khẳng định dứt khoát, chắc nịch, dựa trên một niềm tin sắt đá vào tài trí bản thân.
Cuộc thế trăm năm này cần phải có ta, không phải là để hưởng lạc thú mà là để cống hiến cho đời, để đáng mặt nam nhi, để lưu danh thiên cổ. Câu thơ thứ nhất khẳng định dứt khoát, đến càu thứ hai, tác giả chuyển sang giọng nghi vấn, nhưng cũng để nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng và chí khí cống hiến cho đời, để tên tuổi còn lại mãi mãi về sau. Ý thơ được tăn cấp lên, đồng thời thêm giọng khuyến khích, giục giã.
Câu thơ giàu cảm hứng; lãng mạn bay bổng gắn với những hình tượng nghệ thuật kì vĩ, trường tồn: đất trời cao rộng (càn khôn), cuộc nhân sinh một đời người (trong khoảng trăm năm) và cả tương lai nối dài phía sau (sau này muôn thuở), càng làm tăns đến vô cùng sức mạnh của khát vọng và niềm tin. Câu hỏi tu từ mang ý phủ định mà thực chất là khẳng định cương quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng để cống hiến cho đời. Cụ Phan không hề khẳng định mình và phủ nhận mai sau, mà muốn nói lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt và tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ. tác giả có niềm tin sắt đá vào bản thân và các thế hệ mai sau.
Đặt trong hoàn cảnh mấy năm đầu thế kỷ XX, sau những thất bại liên tiếp của phong trào Cần Vương chống Pháp – tâm lý buông xuôi, chán nản, an phận, cam chịu cảnh cá chậu chim lồng có nguy cơ phát triển, đó là cái vạ chết lòng – thì hai câu thơ thực như hồi chuông thức tỉnh có tác dụng rất mạnh. Giọng thơ đĩnh đặc, rắn rỏi thể hiện một cái “tôi” tích cực, một cái “tôi” trách nhiệm cao cả với khát vọng và quyết tâm cao trong buổi lên đường cứu nước.
Vượt lên tất cả, cái “chí làm trai” oai hùng kia được gắn với hoàn cảnh thực tế xót xa của nước nhà:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
(Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài)
Câu 5 nói lên nỗi nhục mất nước, nỗi xót đau đốt cháy tâm can nhà thơ (Non sông đã chết), đồng thời cũng khẳng định ý chí thép gang của những con người không cam chịu sống cuộc đời nô lệ đắng cay (Non sông đã chết, sống thêm nhục). Ý chí ấy gần gũi với tư tưởng yêu nước, với ý chí của người nghĩa sĩ nông dân trong thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Nhưng đến câu 6 thì tư tưởng của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên, mang những sắc thái mới của tư tưởng thời đại.
Đất nước mất chủ quyền thì con người cũng không yên ổn. Nỗi nhục lớn xuất phát từ chỗ con người trở thành nô lệ. Phan Bội Châu xem lẽ nhục – vinh gắn bó chặt chẽ với ý thức về sự tồn vong của đất nước, dân tộc. Câu thơ có ý nghĩa thức tỉnh, cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân. trong buổi nước mất nhà tan, sách vở thánh hiền cũng chẳng có ích gì, có nấu sử sôi kinh cũng trở nên vô nghĩa, lạc hậu. Nhà thơ kêu gọi xếp bút nghiên, cầm lấy gươm súng dành lại nước nhà và từ bỏ lối học cũ.
So với nguyên tác, các cụm từ đồ nhuế (nhơ nhuốc) được dịch là nhục, tụng diệc si (học cũng chỉ ngu thôi) được dịch là học cũng hoàichỉ thể hiện được ý phủ nhận mà chưa thể hiện rõ cái tư thế, khí phách ngang tàng, dứt khoát của tác giả.
Nếu cảm hứng yêu nước trong thơ văn cụ Đồ Chiểu còn mang nặng chữ hiếu, trung thì đến Phan Bội Châu, nó đã khác. Cụ Phan đã dám đối mặt với cá nền học vấn cũ để nhận thức một chân lí: sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì trong buổi nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm giữ lấy thì chỉ là ngu (tụng diệc si) mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu không phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng có được một ý tưởng như thế đã là hết sức táo bạo đối với một người từng là môn đồ của nơi “cửa Khổng sân Trình” rồi.
Có được dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết phải kể đến tấm lòng yêu nước nồng cháy mà ông đã thể hiện ở câu trên, đến khát vọng tìm con đường đi mới có thể đưa nước nhà thoát ra khỏi cảnh khổ đau. Bên cạnh đó không thể khôn« nói tới những ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đang len lỏi vào đất nước này ngay từ mấy năm cuối thế kỉ XIX mà Phan Bội Châu đã đón nhận qua những cuốn tân thư lưu truyền bí mật. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên sừng sững, oai hùng với cái khí phách ngang tàng, táo bạo, quyết liệt của một nhà cách mạng đi tiên phong cho thời đại mới
Phan Bội Châu chưa đến mức phủ nhận hoàn toàn cả nền học vấn Nho giáo mà chính tác giả là đại diện xuất sắc. Nhưng ở đây ông đã dám đối mặt với cả nền học vấn cũ để nhận thức chân lý: sách vở Nho gia thánh hiền từng là rường cột tư tưởng đạo lý, văn hóa cho nhà nước phong kiến Việt Nam hàng ngàn năm lịch sử thì giờ đây chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà Nếu cứ khư khư nệ cổ, trung quân mù quáng thì chỉ làm cho mình ngu mà thôi. Đây là tư tưởng hết sức mới mẻ và táo bạo của Phan Bội Châu. Có được dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết phải kể đến tấm lòng yêu nước cháy bỏng của ông quyết đổi mới tư duy để tìm con đường đưa nước nhà thoát khỏi vòng nô lệ tối tăm.
Bài thơ khép lại trong tư thế và khát vọng buổi lên đường của nhân vật trữ tình:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Các hình ảnh ở hai câu thơ này đểu hết sức lớn lao: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả đều như hoà nhập với con người trong tư thế đang “bay lên” (chữ nhất tề phi dịch là tiễn ra khơi quá êm ả, không thật sát). Hình ảnh kết thúc này thật lãng mạn, hào hùng, con người dường như được chắp đôi cánh thiên thần, bay bổng trên thực tại tối tăm, khắc nghiệt, vươn ngang tầm vũ trụ bao la. Câu thơ là sự hăm hở của người ra đi qua khát vọng muốn vượt theo cánh gió dài trên biển rộng để thực hiện lí tưởng cách mạng. Hình tượng thơ vừa kỳ vĩ, lớn lao vừa lãng mạn, thơ mộng (trường phong, Đông hải, thiên trùng, bạch lãng) hòa nhập với con người trong tư thế cùng bay lên à chất sử thi cuộn trào trong từng câu chữ.
Lối nói nhân hóa “thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” (“muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”) tuy chưa khắc họa được tư thế và khí thế hùng mạnh, bay bổng như nguyên tác nhưng cũng cho thấy nhân vật trữ tình trong niềm hứng khởi đã nhìn muôn trùng sóng bạc không phải như những trở ngại đáng sợ mà như một yếu tố kích thích. Chúng là bạn đồng hành trong một cuộc ra đi hùng tráng.
- Kết bài:
Với giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng, âm điệu vừa rắn rỏi vừa nhịp nhàng, bay bổng, bài thơ khắc họa tư thế con người kì vĩ, đầy lãng mạn, sánh ngang cùng vũ trụ; khí phách ngang tàng, dám đương đầu với mọi thử thách; đồng thời thể hiện lời nguyện thề dứt khoát, thiêng liêng với chính mình, trước bạn bè, đồng chí và đồng bào.
Bài văn tham khảo 4:
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
- Mở bài:
Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước, chiến sĩ cách mạng và nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Ông là đại diện đầu tiên tiêu biểu nhất cho đội ngũ các nhà cách mạng biết dùng thơ văn như một thứ vũ khí chiến đấu hiệu quả nhất. Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” được viết trước khi ông lên đường sáng Nhật tìm kiến con đường giải phóng dân tộc. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà nho tiên tiến đầu thế kỉ XX.
- Thân bài:
“Lưu biệt khi xuất dương” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người. Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ :
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)
Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Mở rộng ra nghĩa là con người phải chủ động trước hoàn cảnh. “Làm trai” là khẳng định chí khí của thanh niên nói chung, chứ thực ra, Phan Bội Châu không phải là người có tư tưởng bảo thủ “trọng nam khinh nữ”. Một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về sức mạnh của con người trước càn khôn. ý thức về cái Tôi đã được tác giả tận dụng triệt để bằng cách tạo nên thế đứng đặc biệt : sự ngang hàng giữa “tớ” và “khoảng trăm năm”. Đây không phải là sự đề cao cái Tôi một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần đấu tranh của con người.
Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với dân tộc của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân chính đã thể hiện ở đây:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
(Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)
Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Vào thời buổi đó của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học thứ văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao mà thực hiện được đạo thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Đất nước tao loạn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng.
Trên thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây vốn rất xa lạ với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã hội. Và trở thành nỗi đau đời của các nhà nho vốn coi trọng “tam cương ngũ thường”. Non sông bị chà đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Những từ như tử (chết), nhuế (nhơ nhuốc), si (ngu) đã thể hiện thái độ khinh thường của tác giả đối với những kẻ tự ru ngủ mình bằng cách ngồi đọc sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm than, đồng thời khẳng định khí tiết hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp.
Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa dịch hết được tinh thần của nguyên tác ở ba chữ nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt huyết và cũng tràn đầy hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.
Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho thanh niên – tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất – mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng. Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Đó là những giá trị bất hủ của “Lưu biệt khi xuất dương”.
- Kết bài:
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh liệt, khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tin h thần chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc của tác giả.Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng những tư tưởng cách mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết hợp với những từ láy gây ấn tượng mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời, lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu