Phân tích nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua chương truyện Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)

nghe-thuat-trao-phung-cua-vu-trong-phung-the-hien-qua-chuong-hanh-phuc-cua-mot-tang-gia-trong-tac-pham-so-do

Phân tích nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua chương truyện “Hạnh phúc của một tang gia” (trích tiểu thuyết “Số đỏ”)

Dàn bài hướng dẫn:

I. MỞ BÀI:

– Giới thiệu khái quát về tác giả Vũ Trọng Phụng:

  • Nhà văn hiện thực phê phán nổi bật giai đoạn 1930–1945.
  • Được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc” với lối văn sắc sảo, châm biếm mạnh mẽ.

– Giới thiệu tác phẩm Số đỏ và chương truyện Hạnh phúc của một tang gia:

  • Số đỏ là một tiểu thuyết trào phúng tiêu biểu, phơi bày những nghịch lý xã hội thành thị tư sản đương thời.
  • “Hạnh phúc của một tang gia” là chương truyện đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

– Nêu vấn đề nghị luận: Nghệ thuật trào phúng sâu cay của Vũ Trọng Phụng được thể hiện rõ nét qua chương truyện Hạnh phúc của một tang gia.

II. THÂN BÀI:

1. Giải thích nghệ thuật trào phúng

– Nghệ thuật trào phúng: là hình thức nghệ thuật sử dụng mỉa mai, châm biếm, phê phán… nhằm vạch trần những thói hư tật xấu, hiện tượng phi lý trong xã hội.

– Trào phúng trong Số đỏ không chỉ mang tính giải trí mà còn là công cụ phê phán xã hội sâu sắc, phản ánh những nghịch lý, sự suy đồi trong lối sống và đạo đức.

2. Tình huống trào phúng: “Hạnh phúc của một tang gia”

– Tình huống trái khoáy, gây cười: Tang gia nhưng ai cũng… vui sướng, mỗi người đều có lý do riêng để hạnh phúc khi cụ cố tổ qua đời.

– Sự nghịch lý giữa “tang gia” và “hạnh phúc” ngay từ nhan đề đã thể hiện sự châm biếm sâu cay.

3. Phân tích nghệ thuật trào phúng trong từng biểu hiện cụ thể

a. Trào phúng qua chân dung và hành vi các nhân vật

Cụ Cố Hồng: “Cụ khóc mếu máo: Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!” – biếm họa sự giả tạo, ham danh vọng, bất chấp đạo lý.

– Cậu Tú Tân: Mang máy ảnh đi chụp đám ma như chụp sự kiện, thể hiện sự lệch lạc trong nhân cách, ham thích văn minh rởm.

Ông Phán mọc sừng: Mừng vì “có dịp” đội tang bố vợ để thể hiện lòng trung thành và lấy điểm trong gia đình vợ.

Cô Tuyết: Diện đồ “ngây thơ” để khoe vẻ gợi cảm, nhân dịp phô diễn “cái mốt Tây hóa”, chứ không phải đau buồn vì mất người thân.

Vợ chồng Văn Minh: Ai cũng nghĩ đến lợi ích cá nhân (chia gia tài, ra mắt mốt mới, quảng cáo tiệm thời trang…) chứ không ai thực lòng đau xót cho người chết.

b. Trào phúng qua ngôn ngữ và giọng điệu

– Giọng văn lạnh lùng, mỉa mai, xen lẫn trần thuật khách quan và bình luận châm biếm.

– Từ ngữ mang tính mỉa mai cao: “Hạnh phúc”, “hoan hỉ”, “sung sướng”, “rất ân cần”, “thật cảm động”… sử dụng sai hoàn toàn trong bối cảnh tang tóc, tạo hiệu ứng trào phúng rõ rệt.

– Các từ “ngây thơ”, “văn minh”, “thành công”, “đẹp lắm”... bị đảo nghĩa, trở thành công cụ phê phán xã hội lệch chuẩn.

c. Trào phúng qua sự kiện đám ma

– Đám ma trở thành nơi phô trương thời trang, mốt Tây hóa, thói trưởng giả học làm sang.

– Cảnh đám ma được mô tả như một “sân khấu thời trang”, “hội chợ văn minh” chứ không phải nghi thức tiễn biệt người đã khuất.

– Sự sắp xếp chi tiết rất logic, có chủ đích, khiến toàn bộ không gian tang lễ trở nên phi lý nhưng rất đúng với xã hội giả dối thời ấy.

4. Tác dụng của nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm

– Vạch trần hiện thực xã hội tư sản thành thị suy đồi: Con người sống giả tạo, chạy theo danh vọng, vật chất, hình thức.

– Phê phán sâu sắc lối sống nửa mùa, lai căng: Cái gọi là “văn minh” bị bóp méo, trở thành sự lố bịch.

– Gây tiếng cười sảng khoái nhưng cay đắng: Người đọc vừa cười, vừa nhận ra sự mục ruỗng của đạo đức xã hội.

III. KẾT BÀI:

– Khẳng định tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia.

– Nghệ thuật trào phúng không chỉ là tiếng cười giải trí mà là công cụ đấu tranh xã hội sắc bén.

Số đỏ và chương truyện “Hạnh phúc của một tang gia” vẫn giữ nguyên giá trị đến hôm nay, là tấm gương phản chiếu những mặt trái trong xã hội con người mọi thời đại.

Bài văn tham khảo:

Bài văn 1:

  • Mở bài:

“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Trong đó mỗi chương là một hài kịch chương XV “Hạnh phúc của một tang gia” được đánh giá là một trong những màn hài kịch thành công nhất. Qua việc miêu tả đám tang của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cái bộ mặt xấu xa của trưởng giả, cái xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” đương thời như cách nói của nhà văn. Nhà văn đã thể hiện một trình độ trào phúng bậc thầy, đạt đến bậc kinh điển, hiếm thấy trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

  • Thân bài:

– Tính chất trào phúng được thể hiện sâu sắc qua cái nhan đề đầy nghịch lí: “Hạnh phúc của một tang gia”:

Ở đây, Vũ Trọng Phụng đã khai thác sự mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. Thông thường, cái chết bao giờ cũng gợi lên tâm trạng đau buồn, sầu não, xót thương. Nhưng trong trường hợp này lại khác: cái chết bất ngờ của cụ Tổ đã mang lại lợi ích và niềm vui lớn lao cho mỗi thành viên trong đám con cháu của người chết. Nhà có người chết mà lại vui, cảnh tang gia có bối rối thật như người ta thường nói nhưng đó là sự bối rối một cách sung sướng. Bối rối không phải tổ chức một đám tang ma mà là để tổ chức một ngày hội, một đám rước thì đúng hơn.

Trong chương này, Vũ Trọng Phụng cũng đã xây dựng được những bức chân dung trào phúng rất đặc sắc. Mỗi nhân vật hiện lên là một niềm “hạnh phúc” trong cảnh tang gia bối rối. Cái chết của Cụ Tổ đã khiến cho mọi thành viên trong gia đình có tang cảm thấy “sung sướng và hạnh phúc” bởi họ nóng lòng chờ đợi cái giây phút này từ lâu. Điểm đặc sắc của nhà văn Vũ Trọng Phụng là ngoài việc thể hiện cái “hạnh phúc” chung của một tang gia; mỗi người trong gia đình lại có một “hạnh phúc” riêng, không ai giống ai. Chính thông qua sự miêu tả, cảm xúc tâm trạng mỗi người trước cái chết của cụ Tổ, nhà văn đã thể hiện rõ nét bản chất, tính cách của mỗi nhân vật. Hay nói cách khác, mỗi nhân vật trong gia đình cụ Cố Hồng lại có một đặc điểm, một mâu thuẫn trào phóng riêng.

Nhân vật cụ Cố Hồng là con trai của người chết. Ông ta có một sở thích quái gở đó là thích đóng vai cụ già yếu, mặc dù tuổi tác chưa phải là cao (Ông ta bắt mọi người phải gọi mình là cụ Cố; lúc nào cũng tỏ ra ốm yếu). Nhưng từ trước đến nay, cụ Cố Hồng mới chỉ diễn trò già yếu với đám con cháu trong nhà nay nhờ có đám tang của bố mình mà cụ có được cái may mắn, diễn trò già yếu trước con mắt của công chúng hàng nghì người. Mới nghĩ đến cảnh đám tang, ông đã thấy sướng run người. Cụ Cố Hồng đã nhắm nghiến lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy; vừa ho khạc, vừa khóc mếu máo để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa, con dai lớn đã già thế kia kìa”.

Với vợ chồng Văn Minh, sau cái chết của cụ Tổ, sẽ được chia một phần gia tài khá lớn; điều mà ông ta lo lắng lúc này là phải mời luật sư đến, chứng kiến cái chết của cụ Tổ: “để cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viễn vong nữa”. Đám ma của cụ Cố cũng là dịp hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mẫu trang phục táo bạo nhất: “nó có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”.

Sự lố lăng được đẩy lên cao hơn nữa khi xuất hiện hình ảnh cô Tuyết, cháu nội cụ Cố. Người cháu gái hiếu thảo này luôn mong ông nội chết để có dịp diện những bộ quần áo tân trang, hở hang đầy khiêu gợi. Trong đám đông nhốn nháo ấy cô lúc nào cũng mong sẽ có dịp gặp được tình nhân Xuân tóc đỏ để có dịp thể hiện lòng hiếu thảo giả tạo của mình và mong Xuân thấu hiểu cô. Và để diễn cho thật giống vói tâm trạng ấy, cô Tuyết luôn giữ vẻ mặt buồn rầu rất “lãng mạn và hợp thời”. Nhưng cô buồn không phải vì cái chết của ông nội mà vì chưa thấy mặt Xuân tóc đỏ.

Cậu Tú Tân, cháu nội người sắp chết, lại có một “niềm hân hoan” tuyệt vời khác. Cậu đã chuẩn bị cái máy ảnh từ lâu và luôn mong ngóng ông nội chết để có dịp sẵn sàng ghi lại những khoảnh khắc đau thương “tuyệt vời nhất”, mà ông nội vẫn chưa chịu chết, khiến cho cậu vô cùng bức bối muốn điên người lên. Và hôm nay chính là cơ hội để cậu phô diễn hết tài năng chụp hình của mình.

Ông Phán mọc sừng, chồng cô Hoàng Hôn, và là cháu của người quá cố. Không phải ai khác mà chính ông ta là nguyên nhân gây ra cái chết của cụ Tổ. Ông Phán tỏ vẻ vui mừng hả hê trước việc vợ mình ngoại tình và lợi dụng để  tống tiền nhà vợ. Không ngờ điều đó lại khiến cho cụ Tổ bị sốc mà chết. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế.

– Cảnh đám tang đã được nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả bằng bút pháp trào phúng bậc thầy:

Cảnh đám tang được miêu tả hết sức trọng thể, phô trương, hình thức. Việc tổ chức đám tang rất hổ lốn theo kiểu Ta – Tàu – Tây (có kiệu bắt cổng, lợn quay đi lạng, có lốc cốc xoảng, có cái bu-dích,…)

Những người đi dự đám tang luôn cố tạo ra vẻ buồn rầu, nghiêm trang cho phù hợp với phong cảnh, nhưng những câu chuyện của họ thì rất sôi nổi đời thường và và chẳng liên quan gì đến người chết. Người đi đưa đám mà trang phục của họ thì như đi hội; có đủ mọi thứ, nhưng chỉ thiếu một thứ duy nhất đó là tình cảm sót thương, đau đớn tiễn đưa người chết.

Trong đám tang, Xuân tóc đỏ càng được dịp huyên hoang hơn vì nhờ có nó cụ Tổ lăn đùng ra chết (nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô cháu gái Hoàng Hôn khiến cụ uất lên mà chết) là cố vấn của tờ báo “Gõ mõ”, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám ma vì đã bổ sung vào sự long trọng của đám tang sáu chiếc xe chở sư cụ chùa Bà Đanh cùng với những vòng hoa đồ sộ. Việc làm của Xuân đã khiến cụ Phán bà – người đã từng chửi Xuân là đồ khốn nạn và đe sẽ nhổ vào mặt hắn cũng phải cảm động và sung sướng: “ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to. May mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”.

Bản chất của nghệ thuật trào phúng là làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập (giữa bản chất và hiện tượng, giữa hình thức và nội dung, giữa lời nói và việc làm). Chính thông qua sự đối lập ấy làm nổi bật lên tiếng cười mỉa mai, trào phúng, chế giễu. Nói cách khác, bằng nghệ thuật trào phúng, nhà văn giúp người đọc lật mặt trái của xã hội, làm rõ sự thối nát, bất công của xã hội, cũng như con người.

– Niềm vui của những người đưa đám:

Niềm vui và hạnh không chỉ biểu hiện trên gương mặt, dáng đi lời nói của mọi thành viên trong gia đình người chết mà còn lan tỏa ra những người xung quanh.

Hai viên cảnh sát Min Đơ, Min Toa đang thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ Cố Hồng thì được kịp khoe khoang sự oai vệ, danh giá của mình: “ngực đầy những huy chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Môn Bội tinh, Vạn tượng bội tinh. Trên mép và cằm đều đủ râu ria…”.

Những người dân hàng phố thì vui vẻ náo nức vì chỉ mấy khi được xem một đám ma to như thế: “theo cả lối Ta-Tàu-Tây, có kiêu bắt cống, lợn quay đi lạng cho đến cốc xoảng và bu dích và vòng hoa. Có đến 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh đang thi nhau như ở hội chợ”.

Có thể nói, cảnh đám tang diễn ra hết sức long trọng, vui vẻ; nó giống như một đám rước ngày hội vậy. Những người đến chia buồn và đưa ma, ai cũng cố tạo ra vẻ mặt buồn rầu và nghiêm chỉnh cho phù hợp với khung cảnh nhưng những câu chuyện trò to nhỏ của họ mới đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc làm sao. Người ta đến đây, nếu không phải để khoe những bộ ngực đầy huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về chuyện vợ con, chuyện mới sắm áo, mới mua một cái tủ, … Còn bọn thanh niên đến đám tang để có dịp tán tỉnh nhau, cười tình với nhau, ghen tuông nhau,hẹn hò nhau: “bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”.

Ở chương “Hạnh phúc của một tang gia” Vũ Trọng Phụng cũng đã chọn lựa được những chi tiết trào phúng rất tiêu biểu và đặt sắc. Qua những chi tiết này, nhà văn đã thể hiện được bản chất, tính cách của nhân vật – đằng sau cái vẻ bề ngoài đau đớn, thương xót là một bộ mặt giả dối, xấu xa và bỉ ổi.

Lúc đám tang dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn khiến cho người đọc hai chi tiết thật đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám lên tới đỉnh điểm. Chi tiết một là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một phải làm những động tác, tư thế đau buồn để cậu ta chụp ảnh.

Trong khi đó thì “bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mã khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chi tiết hai là ông Phán mọc sừng, cháu rể của người chết kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này đã đau đớn, khóc lóc tưởng chừng như ngất đi khiến ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy”. Vậy mà giữa lúc đoàn người khóc lóc, ông ta vẫn không quên kín đáo món tiền 5 đồng vì đã có công gọi ông ta là “người chồng mọc sừng” để kết quả là cụ Tổ chết và có đám ma to tát hôm nay.

Nghệ thuật trào phúng trong chương “Hạnh phúc một tang gia” còn được thể hiện ở ngôn ngữ và giọng điệu của nhà văn. Một thứ ngôn ngữ giọng điệu có vẻ nhẹ nhàng nhưng lại có sức công phá lớn.

 Điệp ngữ “đám cứ đi” giúp cho người đọc hình dung ra được đám tang rất đông, rất dài, rất trọng thể. Điệp ngữ ấy cũng góp phần làm nổi bật sự phô trương giả dối, và cả sự dửng dưng về tình của những người đi đưa tiễn.

  • Kết bài:

Nếu “Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết thành công của Vũ Trọng Phụng thì chương “Hạnh phúc của một tang gia” là môt trong những chương đặc sắc, khẳng định nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng hơn cả. Ở chương này, nhà văn đã tạo nên được những mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng, những hành vi trào phúng, thậm chí cả những câu nói, giọng điệu trào phúng. Điệp ngữ “đám cứ đi” được nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần; vừa làm nổi bật tính chất giả dối phô trương của đám tang vừa nhấn mạnh sự thản nhiên vô tình của những người đi đưa tiễn.

Bài văn 2:

Trong nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930–1945, Vũ Trọng Phụng nổi bật như một cây bút sắc sảo và bản lĩnh. Ông được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc” nhờ vào khả năng phân tích hiện thực xã hội một cách sâu cay, qua lối viết châm biếm đậm đặc chất trào phúng. Trong sự nghiệp của mình, tiểu thuyết Số đỏ được xem là đỉnh cao nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng – một tác phẩm vừa hài hước vừa đau đớn, vừa cười ra nước mắt vừa đầy chất suy tư triết lý. Trong đó, chương truyện “Hạnh phúc của một tang gia” là một chương đặc sắc, thể hiện rõ nét tài năng trào phúng độc đáo của ông. Qua chương truyện này, Vũ Trọng Phụng không chỉ lật tẩy bộ mặt giả dối của xã hội tư sản thành thị mà còn để lại những tiếng cười thâm thúy, mỉa mai đầy tính nhân văn.

Nghệ thuật trào phúng là hình thức nghệ thuật sử dụng yếu tố mỉa mai, châm biếm để phơi bày, vạch trần và phê phán những thói hư tật xấu, những hiện tượng phi lý trong xã hội hoặc trong cách sống của con người. Khác với hài kịch mang tính giải trí đơn thuần, nghệ thuật trào phúng luôn hàm chứa tư tưởng phê phán sâu sắc và thường ẩn sau tiếng cười là nước mắt – tiếng cười của sự thức tỉnh. Trong Số đỏ, nghệ thuật trào phúng không chỉ dừng lại ở việc mua vui, mà là công cụ sắc bén để Vũ Trọng Phụng phản ánh những nghịch lý trong xã hội đương thời: một xã hội nửa tây nửa ta, vừa lố bịch vừa đạo đức giả, nơi mà những giá trị nhân văn bị đảo lộn bởi sự mù quáng chạy theo “văn minh Âu hóa”.

Ngay từ nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”, người đọc đã lập tức bị cuốn hút bởi sự nghịch lý đầy mỉa mai. Tang gia vốn là nơi thể hiện sự đau buồn, mất mát, nhưng lại gắn với từ “hạnh phúc” – một điều phi lý, trái đạo lý truyền thống. Thế nhưng, đó lại chính là điểm nhấn nghệ thuật sắc sảo của Vũ Trọng Phụng: ông cố tình đẩy sự trái khoáy lên cao trào để vạch trần bản chất thật của những kẻ mang danh “thượng lưu” nhưng tâm hồn đầy toan tính, giả dối. Cái chết của cụ cố tổ, lẽ ra phải khiến cả đại gia đình chìm trong tang thương, lại trở thành cơ hội để mỗi người tìm kiếm niềm vui và lợi ích riêng cho mình.

Đi sâu vào từng nhân vật cụ thể, nghệ thuật trào phúng được thể hiện rõ qua việc khắc họa chân dung và hành vi phi lý đến mức lố bịch. Cụ cố Hồng – con trai trưởng trong gia đình – khóc cha không phải vì thương tiếc mà vì “mừng được tổ chức đám ma to”, để “thi hành ý nguyện cuối cùng” của người đã khuất. Ông liên tục nói câu “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!” – một chi tiết biếm họa sự giả tạo, sáo rỗng trong cách thể hiện tình cảm. Cậu Tú Tân thì mang máy ảnh ra chụp đám ma như thể đang dự một sự kiện quan trọng, cho thấy sự vô cảm và lệch lạc trong nhận thức. Ông Phán mọc sừng thì lại vui mừng vì có dịp đội tang bố vợ, để chứng tỏ lòng trung thành và lấy điểm với gia đình vợ, qua đó hy vọng được chia phần gia sản hậu hĩnh. Cô Tuyết – nhân vật đại diện cho lớp thanh nữ tân thời – không ngần ngại khoác lên mình bộ đồ “ngây thơ” gợi cảm để khoe thân hình và “cái mốt Tây hóa”, chứ chẳng mảy may đau lòng về cái chết của ông nội. Còn vợ chồng Văn Minh thì toan tính chuyện chia tài sản, tranh thủ cơ hội quảng cáo cửa hiệu thời trang Âu hóa của mình.

Vũ Trọng Phụng sử dụng giọng văn khách quan, xen lẫn bình luận mỉa mai để đẩy hiệu quả trào phúng lên đến đỉnh điểm. Cách dùng từ “hoan hỉ”, “sung sướng”, “ngây thơ”, “thật cảm động”… để miêu tả cảm xúc của các nhân vật trong bối cảnh một đám tang đã làm bật lên sự phi lý và hài hước đến chua chát. Những từ ngữ vốn mang nghĩa tích cực lại bị đặt vào tình huống hoàn toàn trái ngược – một thủ pháp nghệ thuật nhằm phơi bày sự tha hóa trong suy nghĩ và lối sống của con người.

Bên cạnh đó, nghệ thuật trào phúng còn được thể hiện qua toàn bộ không khí và hình ảnh của đám tang. Đáng lẽ phải là một nghi lễ trang trọng, nghiêm trang, thì lại trở thành một buổi trình diễn thời trang, nơi người ta đổ xô đến không phải để tiễn biệt người đã khuất, mà để khoe mẽ quần áo, dáng vóc, chụp ảnh và thể hiện… văn minh. Đám ma không còn là một nghi thức văn hóa, mà trở thành sân khấu cho những màn trình diễn đạo đức giả, nơi mà mọi nhân vật đều đeo mặt nạ, và người chết chỉ còn là cái cớ để người sống mưu lợi. Sự sắp xếp các tình huống, chi tiết trong chương truyện rất chặt chẽ và logic, phản ánh một xã hội đang bị đảo lộn chuẩn mực đạo đức, nơi mà giá trị con người không còn được đo bằng nhân cách, mà bằng hình thức và mánh lới.

Tác dụng sâu sắc của nghệ thuật trào phúng trong chương truyện “Hạnh phúc của một tang gia” là giúp người đọc nhận diện rõ ràng sự mục ruỗng của xã hội tư sản thành thị đương thời. Qua những tiếng cười chua chát, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần một xã hội đầy rẫy những con người sống giả tạo, thực dụng, chạy theo vật chất, danh vọng và văn minh rởm. Ông không chỉ phê phán lối sống lai căng, nửa mùa mà còn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự tha hóa nhân cách con người trong một xã hội đang đánh mất bản chất truyền thống và đạo lý. Tiếng cười trong Số đỏ không đơn thuần để mua vui, mà là tiếng cười khiến người ta phải suy ngẫm, phải tự chất vấn và nhìn lại mình.

Tóm lại, chương truyện “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những chương đặc sắc nhất của tiểu thuyết Số đỏ, nơi mà nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng được đẩy lên đỉnh cao. Qua việc xây dựng tình huống nghịch lý, khắc họa chân dung nhân vật châm biếm, sử dụng giọng văn sắc sảo và giàu tính mỉa mai, tác giả đã phản ánh một cách sâu cay sự suy đồi của xã hội tư sản thời kỳ giao thời. Số đỏ nói chung và chương “Hạnh phúc của một tang gia” nói riêng đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, bởi nó không chỉ là tiếng cười của một thời, mà còn là tấm gương phản chiếu những mặt trái trong xã hội con người mọi thời đại. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là bậc thầy trào phúng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Bài văn 3:

Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời! Cái xã hội gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân, bạc ác đến thế!

Đọc “Số đỏ”, người ta nghĩ, đây đúng là đất cho ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy đã được sử dụng hết sức lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là “Hạnh phúc của một tang gia”. Ngón võ ấy là ngón gì, ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một “ông vua phóng sự” bẩm sinh đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả toàn dân thiên hạ thấy để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.

Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra một cách ác ý bằng sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.

Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của “một gia đình đông đảo và đáng kính” của một xã hội “thượng lưu”. Cả cái gia đình ấy đã “nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì. hạnh phúc! “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm”: Câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm tất cả mọi thứ “thế thái nhân tình”.

Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rất rành rành cụ thể. Ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình tăng giá lên vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để được người ta ngợi khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…”. Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh bởi vì với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc “trang phục tân thời”, “đồ xô gai tân thời”, “những sáng tạo mốt mới” của tiệm may Âu hoá!

Tâm địa của lũ người kia tưởng đến thế là tởm và lố bịch. Nhưng chưa hết, đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đẩy lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là kẻ có hiếu, có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế ngòi bút của Vũ Trọng Phụng tập trung sức mạnh như có thần trong phần thứ hai của chương sách – phần tả cảnh đám ma.

Trước hết nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ “hư hỏng một nửa”, một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó, “vẻ buồn lãng mạn” vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả lạ lùng. Các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.

Đám ma to thật, to đến mức “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, khoe sang và để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.

Nếu như mong muốn của tất cả đám con của người chết kia là trong đám ma này đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời là sự tàn nhẫn bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn thì quả thực chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc. Nhưng chưa hết. Dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội văn minh Âu hoá. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát, nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang “buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ”. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, lớp’ “hoa” của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi sang trọng; người đeo đầy đủ các thứ “hội rinh”. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.

Sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.

Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc “Đám cứ đi…” được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói, đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ thử tìm xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự “đi đưa đám”, nghĩa là có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả, tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… nhưng tất cả đều “mang vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma”.

Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ như thế. Nhưng, với Vũ Trọng Phụng có nghe được những lời mà họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ còn trơ tráo đến mức nào mà nhà văn đã đưa ra một số lời ấy: “Đám cứ đi…” có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài. Đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là “người chồng mọc sừng” (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.

Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong trang sách là thật ư? Nhưng những điều ấy vô lí lắm mà và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất: Sự tàn nhẫn và sự dối trá.

Bài văn 4:

Hạnh phúc của một tang gia là tựa đề chương XV của tiểu thuyết Số đỏ. Ở chương này, Vũ Trọng Phụng miêu tả đám tang của cụ cố tổ, qua đó dựng lên một màn hài kịch với mâu thuẫn trào phúng, chân dung biếm hoạ có giá trị tố cáo sâu sắc. Làm nên giá trị của chương XV chính là nghệ thuật trào phúng độc đáo của Vũ Trọng Phụng.

– Thuật ngữ nghệ thuật trào phúng:

Đọc “Số đỏ”, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kỳ lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một tang gia. Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn.

“Nghệ thuật trào phúng” là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình huống trào phúng, mô tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngôn từ.

– Mâu thuẫn trào phúng trong đoạn trích:

Thật ra thì không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.

Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: “Hạnh phúc của một tang gia”. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Niềm hạnh phúc cụ thể của từng thành viên trong gia đình cụ Cố Hồng là gì? Phân tích, chứng minh.

Cuối chương XIV, theo lời nhờ vả của ông Phán, cháu rể cụ cố tổ, Xuân tóc đỏ đã chào ông Phán mọc sừng. Lời chào đó đã khiến cụ cố tổ tức uất ức vì có cô cháu gái hư hỏng và lên cơn bệnh đến nỗi sắp chết. Xuân sợ hãi bỏ chạy như một thằng ăn cắp. Nhưng mọi người lại tưởng hắn là thầy thuốc chính hiệu vì giận nên đã quên hết lương tâm nghề nghiệp. Trong khi Xuân sợ hãi trốn tránh cả gia đình cụ cố tổ lại mang ơn Xuân vì làm cho cụ cố tổ chết. Cái chết của cụ đáp ứng sự chờ mong của mọi thành viên trong gia đình, vì từ đây họ có thể chia nhau cái gia tài kếch xù. Như vậy, một kẻ có tội như Xuân ngờ đâu lại trở thành có đại công với gia đình. Xuân càng trốn chạy sợ tội thì danh dự lại càng to thêm. Thật là đáng nực cười, đúng như tác giả viết, đó là một bài học cho những kẻ nào dám bảo một người như Xuân là con nhà hạ lưu, ma cà bông, vô học, vô lại, nhặt ban quần, v.v…

Mâu thuẫn trào phúng còn thể hiện ngay trong tựa đề của chương này Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia gắn với đau khổ, mất mát nhưng ở đây lại diễn ra nghịch cảnh, mọi người trong đều hạnh phúc, mà niềm hạnh phúc ấy lại diễn ra muôn màu muôn vẻ :

  • Cụ cố Hồng vốn hiếu danh, thích được già để mọi người gọi là cố, sung sướng tưởng tượng ra cảnh được mặc áo xô gai, chống gậy lụ khụ, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để được khen : Úi kìa, con giai nhơn đã già thế kia à.
  • Vợ chồng Văn Minh ông Typn vui mừng vì đây là dịp tốt để lăng xê các mốt quần áo tang và tờ chúc thư đã đi vào thực hành.
  • Ông Phán nhận thấy cái sừng có giá trị vì ông sẽ được thêm vài nghìn đồng trong phần chia gia tài.
  • Cô Tuyết sung sướng có dịp mặc bộ váy ngây thơ, để chứng tỏ mình còn trong trắng và thể hiện khuôn mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt.
  • Cậu Tú tân nhân dịp này chứng minh hiệu quả của máy ảnh.

Cái chết của cụ cố tổ không chỉ làm cho người trong gia đình cụ cố Hồng vui sướng mà còn mang hạnh phúc đến cho những người ngoài gia đình. Cảnh sát bỗng có việc làm và có tiền. Bạn bè của cụ cố có dịp khoe các huy chương và đủ kiểu râu ria. Gia đình, phố phường tưng bừng huyên náo như ngày hội. Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…

Với những mâu thuẫn trên, đặc biệt là việc miêu tả tỉ mỉ niềm hạnh phúc của mọi người trước cái chết của cụ cố tổ, Vũ Trọng Phụng đã lột bộ mặt thật của xã hội lố lăng, chuộng hình thức, không chút tình người, vạch chân tướng của những hạng người mang danh thượng lưu trí thức, văn minh nhưng thực chất là cặn bã đạo đức giả. Đó là chưa kể đến việc lợi dụng đám tang để giải quyết việc hôn nhân cho cô Tuyết hòng xoa đi tiếng xấu hư hỏng một nửa của cô.

Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.

– Xây dựng chi tiết trào phúng:

Cảnh trào phúng là những cảnh tượng trái với lẽ thông thường, tập trung rất nhiều điều trái với thuần phong mĩ tục được phóng đại lên để gây cười. Cảnh đưa tang là một cảnh trào phúng vì bề ngoài là đám tang nhưng thực chất lại mang tính chất đám hội, đám rước. Để tô đậm ý nghĩa trào phúng, nhà văn đã xây dựng và chọn lọc được nhiều chi tiết ấn tượng :

Đó là cảnh đám ma được tổ chức rất đông rất to nhưng tất cả mọi người đi đưa ma không hề có ai quan tâm đến người chết. Người thì trò chuyện về vợ con, nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới mua, người thì tận dụng cơ hội đưa ma để chọc ghẹo, cười tình hoặc bình phẩm, chê bai nhau. Nhà văn đã phải đau lòng mà bình luận : Đám ma to tát có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Miêu tả hình thức đám tang với mọi nghi thức long trọng, tác giả làm nổi bật lên cái cần có mà lại không có của đám tang này là tình người.

Phải trẻ la ó, cậu Tú tân điên người, bà Văn Minh sốt ruột, ông Typn bực mình… Mọi người điên lên. Hoá ra người ta sốt ruột không vì người chết mà vì cái xác chết ấy sao không mau chóng được chôn để họ được hưởng Hạnh phúc của một tang gia

Mỉa mai thay là cảnh cậu Tú tân bắt mọi người phải đóng kịch để chụp hình : người phải chống gậy, gục đầu, người phải lau nước mắt… Nếu coi đoạn trích là một tấn bi hài kịch thì mỗi người là một vai hề trình độ.

Cuối cùng phải nói đến cảnh ông Phán oặt người đi, khóc thảm thiết trên tay Xuân. Mỉa mai thay, đúng lúc xót thương lên đến cao đọ cũng là lúc ông Phán tranh thủ thanh toán sòng phẳng số tiền thuê Xuân bằng cách dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…

 Ngôn ngữ trào phúng, bút pháp phóng đại:

Góp phần cho tiếng cười đầy mỉa mai còn phải kể đến ngôn ngữ của tác phẩm. Khi kể chuyện, bao giờ Vũ Trọng Phụng cũng có sự kết hợp những ngôn từ trái ngược nhau trong một câu văn để làm bật lên sự vô nghĩa lý của cuộc đời. Chẳng hạn, tác giả gọi nhà đám là bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ…, hoặc tác giả miêu tả : Thật là một đám to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!

Đám tang cụ cố tổ đã được miêu tả bằng một nghệ thuật trào phúng điêu luyện khiến cho người ta phải mỉm cười nhưng là nụ cười xót xa cho sự lừa dôi. Đoạn trích đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của giới thượng lưu đương thời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang