Đọc văn bản sau:
CHUYỆN CƠM HẾN
[…] Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!
[…] Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người “máu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, pho mát…, đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:
– Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ: Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người…
(Trích trong “Huế – Di tích và con người”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Đà Nẵng, 2003)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Xác định chủ đề của văn bản. Căn cứ vào đặc điểm nào em xác định chủ đề của văn bản?
Câu 2. Từ đoạn trích, hãy chỉ ra 2 đặc điểm/dấu hiệu để khẳng định văn bản “Chuyện cơm hến” thuộc thể loại tùy bút.
Câu 3. Nêu công dụng của dấu chấm lửng trong câu sau:
“Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cùng đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, pho mát…, đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng, ăn trừ bữa”.
Câu 4. Chỉ ra và nêu nghĩa của một từ Hán Việt trong câu sau:
“Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản”
Câu 5. Chỉ ra và nêu nghĩa của một từ địa phương có trong câu sau:
“Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ: Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!”
Câu 6. Theo văn bản, khi vừa đi Tây về, nghe tiếng rao cơm hến, tâm trạng của tác giả như thế nào?
Câu 7. Xác định những từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trong đoạn sau:
“Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại…”
Câu 8. Từ nội dung văn bản, hãy đề xuất hai giải pháp góp phần lưu giữ các món ăn truyền thống của dân tộc.






