Phần I. Đọc hiểu văn bản văn học và viết đoạn văn nghị luận văn học (5,0 điểm) VỊ MÙA XUÂN Cô gái thời gian Mùa xuân như một phong thư ngỏ Tôi đọc trên đường hy vọng cỏ (Vũ Quần Phương, Vị mùa xuân, Báo Văn nghệ số 29, 20/07/2013, Hội Nhà văn Việt Nam) Câu 1 (3,0 điểm): a. Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp mùa xuân ở đầu bài thơ. (0,5 điểm) b. Xác định và nêu chức năng của biện pháp tu từ nhân hóa trong hai câu thơ: “Chim về gọi lá cho cành biếc / Cá lượn làm duyên với khúc sông” (0,75 điểm) c. Em hiểu gì về ý nghĩa hai câu thơ sau: (0,75 điểm) “Ruộng xưa về lại tay cày cuốc d. Qua bài thơ, tác giải muốn gửi đến người đọc thông điệp gì? Trình bày từ 3 đến 5 câu. Câu 2 (3,0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ phân tích nội dung chủ đề và đặc sắc nghệ thuật bài thơ VỊ MÙA XUÂN của Vũ Quần Phương. Phần II. Đọc văn bản nghị luận và viết bài văn nghị luận xã hội (4,0 điểm) (1) Có lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại. (2) Hình như khi xây dựng nên đô thị của mình, người Huế không bộc lộ cái ham muốn chế ngự thiên nhiên theo cách người Hy Lạp và người La Mã, mà chỉ tìm cách tổ chức thiên nhiên trở thành một kẻ có văn hóa để có thể tham dự một cách hài hòa vào cuộc sống của con người, cả bên ngoài và bên trong. Lớn lên ở Huế, không lúc nào tôi không cảm thấy thành phố này như một khu vườn thân mật của mình. Ở đó, tôi có thể tư duy cùng với hoa sen, khát vọng với hoa phượng, mơ mộng với mùi hương sâu thẳm của hoa ngọc lan ban đêm, và khi thành phố lộng lẫy trong sắc mai vàng mùa Xuân, không hiểu sao lại thấy lòng thức dậy một niềm ngưỡng mộ bao la đối với cuộc sống. (3) Cũng ít có một thành phố nào như nơi đây, giữa tạo vật và con người luôn luôn gắn bó một tình bạn thân thiết và tươi xanh đến như vậy. Cho đến nay, người Huế vẫn còn duy trì một phong tục cổ xưa về tình bạn cao quý đó: khi người chủ vườn qua đời thì những người già đem buộc băng tang vào những cây quý trong vườn để cây khỏi tàn lụi theo, vì người ta tin rằng cây cũng vui buồn cùng với con người. Không nên nhầm lẫn mối thân tình này với điều vẫn gọi là “tình bạn” mà nhiều người phương Tây, như người Anh chẳng hạn, thường cảm thấy đối với loài vật. Ở đây, quan hệ con người – cây cỏ xuất phát từ một truyền thống triết lý sâu xa của phương Đông rất được nhấn mạnh trong tâm thức người Huế, rằng con người vốn là kẻ cư ngụ trong căn nhà lớn của vũ trụ; từ đó, trong cố gắng vươn tới niềm hạnh phúc về tinh thần, con người luôn luôn biểu hiện nỗi khát khao tìm về nơi ăn chốn ở nguyên khởi của nó, nơi thực sự nó đã sinh ra. Dân gian kể rằng trong nỗi bất hạnh của đời người, cô Tấm đã hai lần sống ngụ trong cây thị và cây sầu đông. Tôi thường đọc thấy cái ý tưởng ấy bàng bạc khắp nơi trong cảm hứng của các nghệ sĩ Huế: những nghệ nhân trang trí thích dùng mô-típ con chim phượng (chim phượng luôn luôn tượng trưng cho sự thăng hoa của tâm linh) hóa thân từ lá cây; trong một tác phẩm lụa của họa sĩ Tôn Thất Đào, núi Ngự Bình được nhìn thấy như là một cô gái nằm mơ màng giữa những cánh thư màu xanh vốn là những ruộng lúa; hoặc nơi này nơi kia trong những bài hát quen thuộc của Trịnh Công Sơn: “Đời ta có khi tựa lá cỏ – ngồi hát ca rất tự do”. (4) Lật lại cuốn sổ ghi chép về Huế, tôi chợt thích thú một cách bất ngờ khi đọc lại một câu của Mác, không nhớ tôi đã ghi lại từ lúc nào. Mác viết rằng: “Chúng ta không thể đối xử với thiên nhiên, thống trị thiên nhiên như kẻ xâm lược thống trị dân tộc khác, như một kẻ đứng ngoài thiên nhiên. Trái lại, chúng ta thuộc về nó, cả xương, thịt, máu và trí tuệ, và chúng ta ở bên trong nó”. Giữa những điều tôi đang suy nghĩ, như trong một văn cảnh chung, lời của Mác vang lên trong từng ý nghĩa của mỗi từ; và tôi tưởng chừng như trong khi đưa mắt nhìn khắp thế giới bằng cái nhìn xoáy tận bản thể của ông, Mác đã nhìn thấy thành phố xanh biếc của đất nước tôi. [… ] (Trích “Hoa trái quanh tôi”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Trẻ, 1995, tr7-9)) Câu 1 (1,0 điểm): Phân tích tác dụng của lí lẽ và bằng chứng đối với luận điểm trong đoạn văn (3) Câu 2 (4,0 điểm): Thiên nhiên là món quà vô giá mà cuộc sống ban tặng cho con người. Vẻ đẹp của sông núi, rừng xanh, biển cả không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn mà còn góp phần quan trọng trong việc gìn giữ sự sống và bản sắc văn hóa dân tộc. Hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của em về vai trò của thiên nhiên đối với con người và trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc bảo vệ, giữ gìn và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. |
Đề số 52: Đọc hiểu văn bản VỊ MÙA XUÂN của Vũ Quần Phương. NLXH: Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn, trân trọng việc bảo vệ, giữ gìn và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước.

