Đề số 51: Đọc hiểu văn bản HẠT GỬI MÙA SAU của Nguyễn Ngọc Tư. NLXH: Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn và phát huy ý nghĩa ngày Tết cổ truyền

doc-hieu-van-ban-hat-gui-mua-sau-nlxh-y-nghia-ngay-tet-co-truyen-dan-toc

Phần I. Đọc hiểu văn bản văn học và viết đoạn văn nghị luận văn học (5,0 điểm)

HẠT GỬI MÙA SAU

Ông già như lật tung cái nhà lên. Ông chui xuống gầm giường, ông thò đầu vào lục lọi trong tủ chén. Đầu vướng đầy mạng nhện, ông cằn nhằn cử nhử, rõ ràng, mình cất ở đây, sao bây giờ nó mất biệt rồi, kỳ quá, kỳ quá. Tụi nhỏ cũng chạy lại, nghiêng chỗ này, ngó chỗ kia, cũng nói lạ quá trời, tự nhiên mất vậy cà. Nói, mà sợ tím ruột bầm gan, vì cái vật mà ông già muốn tìm tụi nhỏ đã cương quyết giấu biệt rồi.

Ai mà biết ông già coi trọng mớ bông vạn thọ, mồng gà khô đó dữ vậy, tụi nhỏ chống chế. Nhưng rõ ràng, tụi nhỏ biết. Sống chung một nhà, làm gì mà không rõ mỗi lần chim én bay hấp háy, đậu trên đám chà dưới mé sông, ông già lại đi lật lịch thăm chừng. Một tháng trước tết, ông vác cuốc ra sân, tụi nhỏ dù muốn dù không cũng phải vác cuốc đi theo, xới nhừ mảnh sân trước nhà, lụi hụi tưới nước cho mềm xốp lại. Ông già đi lục lọi mớ bông để giống từ tết năm ngoái, rải hạt. Kế Tết, lúc ông già đứng tỉa lại hàng bông bụp, bông lồng đèn thì bông vạn thọ, mồng gà, sao nhái đã nở rực cả vạt sân. Bông móng tay thấy thân phận nhợt nhạt của mình, nép thành một hàng dài dọc đường đi. Nghỉ tay, ông đứng chống nạnh, khoan khoái đứng ngắm bông, hết đứng gần rồi lại lùi ra, cười khà khà khà, khoái trá.

Với ông, Tết mà không trồng bông thì mất vui đi. Dù cực, dù ngày mấy lượt khệ nệ xách thùng đi tưới. Có cho đi, thì mới nhận lại, thử hỏi, ba ngày Tết, ngồi khề khà mấy ly trà, ngó ra cái sân vàng rực mênh mông, bông chật ních con mắt, có sướng không? Sướng! Vì vậy mà khi trời bắt đầu trở chướng, ông già thì trở… chứng, không chịu ở trong nhà. Suốt ngày tha thẩn ngoài sân, sửa sang, uốn lại mấy bụi chùm rụm, tỉa hai cây sộp, chăm sóc đám bông… Ông gọi là bông thì tụi nhỏ không được gọi hoa, ông nói hoa là hoa hồng hoa huệ gì đó, còn mồng gà, vạn thọ hay sao nhái thì phải kêu bằng bông, cũng như núm mối mà cứ học đòi nấm mối, cái thứ dân dã, mọc vườn hoang phải kêu sao cho dân dã, dễ nghe (ông mà đọc được bài này, hẳn ông giãy nảy lên, cái gì mà gửi, gì mà hạt, sao không nói “gởi hột…”).

Đám trẻ tịt ngòi. Tụi nó thấy đám bông đúng là mang rắc rối tới cho tụi nó. Mấy bữa ông đi đám giỗ xa, về nhà, thấy bông héo, ông rầy tụi nó cả buổi. Mà, tụi nhỏ thấy bông cũng có ích lợi gì lắm đâu, ừ, có bông thì nhà sẽ đẹp mấy ngày Tết, nhưng mắc công. Sau tết, bông tàn, lại phải chọn những bông lớn nhất, đẹp nhất, già nhất đem phơi khô, lại phải nhổ bỏ đám cây rụi lá, dọn dẹp cho sạch, chuẩn bị sân phơi lúa. Tụi nhỏ nghĩ, đẹp, mà không ăn được, thì cũng phí.

Một phần, tụi nhỏ thương ông già, cứ lụi hụi cho cực thân. Ba năm rồi, đất nhiễm mặn, tan hoang, trồng bông cũng không nước tưới. Ngày xưa còn bờ dừa còn liếp chuối, bông trên sân phối hợp với cảnh chung quanh, giờ cây cỏ đìu hiu, cái màu vàng rực lên của sao nhái, vạn thọ càng làm khó chịu, chói gắt con mắt. Một bữa dọn dẹp ổ mối trong tủ, tụi nhỏ lén đem cái gói bông khô giấu trên giàn củi. Và ông già tìm kiếm trong tuyệt vọng.

Không thể tưởng tượng được, tết này lại không có bông, ông già rầu rĩ, nằm gác tay lên trán. Ngày dài, nằm chán, ông già ra đằng trước, nhìn cái sân chang chang nắng, thở dài ứ hự, mắt hoang vắng, thất thần. Tụi nhỏ đã dự tính trước, ông già sẽ buồn, nhưng nghĩ nỗi buồn qua mau, mai mốt ông quên tuốt. Nhưng ngó bộ dạng ông vẫn long đong tìm kiếm, tụi nó hoảng hồn, Tết sau, sau nữa, ông cũng sẽ nhớ hoài mùa bông cũ. Tụi nhỏ nhận ra, ông già trồng bông không hẳn vì chúng đẹp (bởi thật ra chúng đâu có đẹp, thậm chí, bông vạn thọ hôi rình), trồng để thấy tuổi xế bóng còn làm được việc thần kỳ, còn có thể vun đắp sự sống từ bàn tay cứng quèo, gân guốc, trồng bông để nhớ cái thời sạ lúa trên đồng, và bông như một món quà Tết duy nhất ông có thể làm cho con cháu.

Bữa sau, ông tìm được gói bông khô trên cái gióng cá khô treo đầu bếp. Ông mừng quýnh, nói kỳ quá, kỳ quá, tao kiếm ở đây nát hết mà không thấy, vậy mà bây giờ tự nhiên nằm chình ình, y như ma giấu. Tụi nhỏ ngó nhau cười cười, mếu mếu.

Lại phải phụ ông già cuốc đất, lại gieo, lại đeo cây nước bơm từng thùng đem tưới. Bông lại nở rực trước sân nhà. Và tết tàn, ông già lại nâng niu đi hái từng bông hoa héo khô, rũ cánh, giữ hạt cho mùa sau. Nghe như một người tàn và bông hoa tàn đang hát thầm bài ca cuộc sống.

Tụi nhỏ ngậm ngùi, ông già dường như làm điều gì lớn lao hơn là giữ hạt. Giữ cho tụi nhỏ không xuề xòa, lười biếng (bệnh này đang lan nhanh dữ dội từ hồi chuyển sang làm vuông nuôi tôm). Giữ một nếp nhà, giữ phong tục cũ…

Giữ cho cái sân bông rực rỡ, lung linh trong ký ức của những đứa trẻ xa nhà…

(https://isach.info/story.php?story=hat_gui_mua_sau__nguyen_ngoc_tu)

Câu 1 (3,0 điểm):

a. Nhân vật ông già trong văn bản Hạt gửi mùa sau có thói quen gì đặc biệt mỗi dịp Tết đến? (0,5 điểm)

b. Qua hình ảnh ông già nâng niu hái từng bông hoa héo khô, rũ cánh để giữ hạt cho mùa sau, em hiểu gì về quan niệm sống của ông? (0,75 điểm)

c. Chỉ ra và nêu tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong câu sau: Suốt ngày tha thẩn ngoài sân, sửa sang, uốn lại mấy bụi chùm rụm, tỉa hai cây sộp, chăm sóc đám bông…” (0,75 điểm)

d. Qua việc tụi nhỏ dần nhận ra ý nghĩa sâu xa của việc ông già trồng bông, em hiểu gì về thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm? (1,0 điểm)

Câu 2 (2,0 điểm):

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích nội dung chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của văn bản HẠT GỬI MÙA SAU của Nguyễn Ngọc Tư.

Phần II. Đọc văn bản nghị luận và viết bài văn nghị luận xã hội (5,0 điểm).

[…]

Nói là tết ta, tết cổ truyền, nguyên đán… vậy chứ mấy ai còn nhớ và thấm được hết cái tinh túy từ cái hồn Tết ấy. Mà nếu có tình cờ đọc được trong sách, báo thì rồi cũng đánh lảng đi như nhớ về thửa ruộng xưa giờ nằm dưới mấy lời bê tông; như hương bồ kết, dậu cúc tần, bồ kết, hương nhu thơm nồng nơi quê hương xa ngái. Bởi thế, nếu được gộp vào với tết Tây lịch, nếu bị lép vế so với Giáng sinh sẽ chẳng có gì lạ. Trừ khi biết được Tết chính là điều bí ẩn thách thức ta suốt cuộc đời. Tết như thể dấu tích minh chứng một điều: những kỉ nguyên, hệ hình văn hóa xưa đã “thác” vào trong đó. […]

(Theo Tết của hồi ức – Bùi Việt Phương) 

Câu 1 (1,0 điểm):

Theo văn bản, Tết cổ truyền của dân tộc chứng minh cho điều gì?

Câu 2 (1,0 điểm):

Từ nội dung đoạn trích trên, hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của em về vai trò của ngày Tết cổ truyền trong đời sống tinh thần của người Việt.

Từ đó đề xuất những giải pháp giúp thế hệ trẻ hôm nay gắn bó, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống ấy trong thời đại mới.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang