Cảm nhận hình tượng bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ: Trần Tế Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng nổi tiếng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bài thơ “Thương vợ” thể hiện tấm lòng thương cảm, trân trọng của tác giả dành cho người vợ hi sinh vất vả trong cuộc sống khó khăn.
– Nêu luận điểm: Hình tượng bà Tú hiện lên chân thực, xúc động qua những vất vả, nhọc nhằn trong đời sống thường ngày và sự bất công, thờ ơ của xã hội phong kiến với người phụ nữ.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh và hoàn cảnh sáng tác.
– Tác giả sống trong xã hội phong kiến với nhiều bất công, đặc biệt đối với người phụ nữ.
– Bài thơ như tiếng lòng của người chồng thương cảm, đồng thời là sự phê phán thói đời bạc bẽo.
2. Phân tích hình tượng bà Tú qua từng câu thơ
a, Câu 1-2:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
– Hình ảnh bà Tú quanh năm vất vả buôn bán ở chợ gần sông (mom sông = bến sông nhỏ).
– Gánh vác trọng trách lớn: nuôi năm người con và cả người chồng, thể hiện sự vất vả, lao động bền bỉ, sự đảm đang của người phụ nữ trong gia đình.
→ Tình cảnh nghèo khó, tất bật mưu sinh của người vợ trong xã hội phong kiến.
b, Câu 3-4:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
– So sánh thân phận bà Tú với con cò nhỏ bé, yếu ớt nhưng vẫn cần mẫn vượt khó.
– Từ “lặn lội” gợi sự nhọc nhằn, gian khó trong việc mưu sinh.
– Cảnh buổi đò đông, eo sèo (âm thanh khó nghe) gợi không khí ồn ào, khắc nghiệt nhưng bà Tú vẫn bền bỉ, làm việc không ngơi nghỉ.
→ Biểu tượng thân cò còn thể hiện sự thấp bé, nhỏ bé, tủi nhục của người phụ nữ trong xã hội.
c. Câu 5-6:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
– “Một duyên, hai nợ” là cách nói biểu thị số phận nghiệt ngã của bà Tú: duyên vợ chồng là định mệnh nhưng cũng là “nợ” phải chịu đựng.
– “Âu đành phận” thể hiện sự cam chịu, chấp nhận số phận khó khăn.
– “Năm nắng, mười mưa” là biểu tượng của những gian khổ, cực nhọc liên tục.
– “Dám quản công” ý nói bà Tú vừa phải làm lụng vất vả, vừa phải quán xuyến việc nhà, không quản ngại cực nhọc.
→ Hình ảnh cho thấy bà Tú vừa chịu đựng, vừa chiến đấu bền bỉ với số phận.
d, Câu 7-8:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
– Phê phán thói đời bạc bẽo, vô tình, cha mẹ không giúp đỡ, chồng thì lạnh nhạt, thờ ơ.
– Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị xem nhẹ, không được trân trọng, cô đơn trong mọi vất vả.
→ Câu thơ thể hiện nỗi niềm thương cảm sâu sắc của tác giả đồng thời là lời phê phán xã hội.
3. Giá trị nghệ thuật
– Ngôn ngữ giản dị, chân thực, gần gũi với cuộc sống thường nhật.
– Hình ảnh “thân cò”, “năm nắng, mười mưa” đậm tính biểu tượng, giàu sức gợi hình và cảm xúc.
– Giọng thơ vừa trào phúng, vừa thương cảm sâu sắc, tạo hiệu quả biểu đạt cao.
4. Ý nghĩa hình tượng bà Tú
– Biểu tượng cho người phụ nữ lam lũ, nhọc nhằn nhưng kiên cường, cam chịu.
– Phản ánh thực trạng xã hội phong kiến bất công, lạnh lùng với phái nữ.
– Gợi lòng trân trọng, cảm thông sâu sắc với người phụ nữ – hậu phương thầm lặng của gia đình.
III. Kết bài:
– Khẳng định giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn của hình tượng bà Tú trong bài thơ “Thương vợ”: Hình tượng bà Tú không chỉ là tiếng lòng thương cảm của tác giả mà còn là tiếng nói phản ánh hiện thực xã hội, đề cao tình cảm, sự hy sinh của người phụ nữ.
– Liên hệ: Ca ngợi và trân trọng sự đóng góp, hy sinh thầm lặng của người phụ nữ trong đời sống hiện đại.
Bài văn tham khảo:
Bài văn 1:
Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài. Mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân. Bài thơ Thương vợ khắc họa hình tượng bà Tú tảo tần, cơ cực hết sức cảm động.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương khắc họa đậm nét cái gánh nặng gia đình đè trên đôi vai bé nhỏ của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Hai câu thơ giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”. Cảnh sớm đầu chợ, chiều bến đò, buôn thúng bán mẹ, chẳng có cửa hàng cửa hiệu, vốn liếng chẳng có là bao, thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng?”. Nuôi đủ nghĩa là không thiếu cũng chẳng thừa. Câu thơ nói lên sự nỗ lực ghê gớm của bà Tú để có thể gánh vác cái gánh nặng gia đình ấy.
Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”. Nghĩa là ông Tú vẫn cứ yên tâm mà đèn sách. Trong khi đó, bà Tú vẫn ngày đêm âm thầm làm tròn bổn phận:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Mượn hình ảnh “con cò” trong ca dao, tạo thành “thân cò”. Hình ảnh thơ nói lên thân phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi. Còn bà Tú thì lặn lội… “khi quãng vắng”, nơi “buổi đò đông”. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo. Vần thơ trở nên dân dã, bình dị hết sức gần gũi. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.
Cuộc đời nghèo khó, thi cử lận đận bao năm khiến ông Tú càng thêm thấu nỗi đắng cay cuộc đời, càng thêm yêu mến người bạn trăm năm, một lòng vì chồng con mà cam chịu. Bởi thế, nỗi niềm cảm thương của tác giả dành cho người vợ thủy chung, cam phận và giàu đức hi sinh chứa đựng biết bao xót xa, ray rứt:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hy sinh thầm lặng cao quý của bà Tú.
Nghĩ về vợ rồi ông lại nghĩa đến mình, nghĩ đến bổn phận làm chồng, làm cha của mình. Ông tự trách cuộc đời, trách bản thân mình vô dụng, bất tài, hết một cuộc đời mà chưa thể lo đủ cho vợ, cho con:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình. Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
Hình tượng bà Tú vất vả, gian lao là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con. Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bài văn 2:
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn, từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình qua hình tượng bà Tú.
Bà Tú xuất thân dòng dõi nho gia “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương – một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp.Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua :
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình tượng bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. “Quanh năm” không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực – là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.
Cái cách nói “năm con với một chồng” nghe có vẻ hài hước vì người ta ai lại đếm chồng, ai lại xếp chồng ngang hàng con như thế. Nhưng ông Tú đã tự cười mình, trách mình vậy đấy. Tự cho mình là gánh nặng mà bà Tú phải cố gồng hết sức để gánh thêm, tự cho mình là kẻ ăn bám vợ. Thương vợ bao nhiêu lại buồn cho mình bấy nhiêu. Bi kịch này không dễ gì thổ lộ bởi nó làm mất mặt nam nhi lắm. Nhưng ông Tú lại muốn ghi công vợ nên sẵn sàng khuất lấp sau người phụ nữ, sẵn sàng tự kết mình vào hàng những kẻ vô tích sự, ăn bám vợ. Thế mới biết tấm lòng của ông chồng sâu nặng và chân thành đến mức nào.
Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong “Thương vợ” của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh.
Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.
Tấm lòng thương vợ, ơn vợ không chỉ dừng lại ở việc hiểu, chia sẻ, xót xa, tri ân vợ mà bật ra thành hành động, thành ngôn ngữ trực tiếp. Đó chính là lời chửi đổng cuối bài thơ. Người cất lên tiếng chửi chính là ông Tú. Trước hết là ông chửi thói đời bạc bẽo. Thói đời ở đây là những nếp quen đáng chê trách mặc nhiên cứ được công nhận và chấp nhận. Những đạo “tam tòng”, những “phu xướng phụ tùy”, những định kiến hẹp hòi “trọng nam khinh nữ”… đã khiến cho người phụ nữ xưa phải khổ. Cũng khiến cho những người đàn ông thương vợ như ông Tú không thể “đồng cam cộng khổ” cùng bà một cách thiết thực hơn. Dẫu muốn, chàng Nho sĩ kia cũng không thể “lặn lội thân cò” hay “eo sèo” buôn bán cùng vợ được. Nên chỉ có thể trách mình, ghét mình là kẻ vô tích sự, là “chồng hờ hững”.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Thói đời” ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững, để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.
Nhưng đằng sau tiếng chửi mình, chửi đời ấy, chửi xã hội ấy, chúng ta thấy những giọt nước mắt của nỗi đau, của tâm trạng phẫn uất, của bi kịch Tú Xương bật ra qua câu chữ. Hẳn là uất ức lắm mới phải bật lên thành tiếng. Hẳn là giận, đau lắm mới không thể giấu trong lòng. Điều gì biến ông Tú thành kẻ “có cũng như không”? Điều gì biến ông thành kẻ ăn bám con, ăn bám vợ? Bởi Hán học đến thời mạt vận. Bởi thi cử lộn tùng phèo những giá trị thực. Thế là cả đời đi thi rốt cuộc chỉ có cái Tú tài dở dang dang dở. Thế nên tâm sự phẫn uất mới bật lên thành tiếng chửi. Nhưng đó không phải chỉ là lời của một Tú Xương mà còn là bi kịch của một thế hệ. Nói thương vợ là trách mình, là tê tái, đau đớn thương mình là vì vậy.
Có thể nói với “Thương vợ”, Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình tượng bà Tú, người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền. Đọc Thương vợ ta mới hiểu thấu lòng ông Tú. Hóa ra đằng sau con người phóng túng ăn chơi kia là cả một chiều sâu tâm trạng. Hóa ra đằng sau tiếng cười trào phúng bật lên thành tiếng là cả nỗi đau thé thái nhân tình. Thương vợ khép lại, nhưng nỗi niềm của Tú Xương hẳn còn đọng lại mãi mai sau. Nỗi đau của thời cuộc còn day dứt nhưng đã là bài toán có lời giải trong xã hội hiện nay. Chỉ có nỗi niềm thương vợ thì vẫn còn mang giá trị nhân sinh trong cuộc sống hiện tại này.
Bài văn 3:
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, Thương vợ được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Nổi bật trong bài thơ chính là chân dung của bà Tú – vợ của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bà Tú gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. Thời gian làm việc “quanh năm”, làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác. “Quanh năm” không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực – là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.
Phận đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú lại phải một mình làm lụng, buôn bán, một mình xông pha và lặn lội nơi bến sông, bến chợ để kiếm sống. Nỗi khó nhọc ấy được cụ thể hóa bằng thời gian quanh năm, không gian ven sông. Có thể thấy, công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng
Công việc vất vả của bà cứ triền miên quanh năm suốt tháng, không được ngơi nghỉ, luôn đầu tắt mặt tối. Giữa không gian và thời gian ấy bà Tú dường như lại càng nhỏ bé, cô đơn và tội nghiệp. Gánh nặng trên vai của bà chẳng có ai để san sẻ “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Năm đứa con với bao nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, lại thêm ông chồng giàu chữ nghĩa đã không đỡ đần được vợ lại trở thành mối bận tâm và gánh nặng của vợ. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ “nuôi đủ”, nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ. Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong “Thương vợ” của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về công việc buôn bán đầy cực nhọc cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vô điều kiện vì chồng con.
Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Thói đời” ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.
Có thể nói với “Thương vợ”, Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.
Bài văn 4:
Trần Tế Xương (1870 – 1907), hay còn gọi là Tú Xương, là một trong những nhà thơ trào phúng tiêu biểu của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Qua giọng thơ trào phúng, ông không chỉ phê phán thói đời bạc bẽo, xã hội bất công mà còn thể hiện những tình cảm sâu sắc, chân thành dành cho những thân phận nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Bài thơ “Thương vợ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tấm lòng thương yêu, cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với người vợ lam lũ, tần tảo – bà Tú. Qua đó, hình tượng bà Tú hiện lên vừa chân thực, vừa xúc động, phản ánh rõ nét cuộc sống nghèo khó và nỗi bất công trong xã hội phong kiến.
Ngay từ hai câu thơ mở đầu, tác giả đã khắc họa rõ nét hình ảnh người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Cảnh tượng buôn bán quanh năm ở bến sông nhỏ bé, giản dị, đã gợi lên sự vất vả, cần cù của bà Tú. Không chỉ phải lo toan công việc mưu sinh vất vả, bà còn gánh vác trọng trách nuôi nấng cả năm người con và người chồng. Hai câu thơ giản dị mà gợi nhiều suy ngẫm về cuộc sống lam lũ, nghèo khổ của người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời thể hiện tình thương chân thành của người chồng đối với bà Tú.
Hình ảnh “lặn lội thân cò” trong câu tiếp theo càng làm nổi bật thân phận người vợ trong cảnh đời gian khó:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
So sánh bà Tú với “thân cò” nhỏ bé, mỏng manh nhưng vẫn phải cần mẫn bươn chải qua những quãng đường vắng vẻ, gian truân. Tiếng “eo sèo” – âm thanh rít lên khó chịu của buổi đò đông, gợi lên không khí ồn ào, vất vả, càng tô đậm sự gian khổ mà bà phải chịu đựng. Hình ảnh ấy không chỉ biểu thị sự yếu ớt về thể xác mà còn tượng trưng cho nỗi vất vả, cô đơn trong cuộc sống.
Hai câu thơ tiếp theo chứa đựng những nỗi niềm trăn trở, sự cam chịu số phận của người phụ nữ:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
“Một duyên, hai nợ” là cách nói gợi cảm về mối lương duyên vợ chồng vừa thiêng liêng, vừa là “nợ” phải gánh chịu những vất vả, gian truân. Từ “âu đành phận” cho thấy sự cam chịu, chấp nhận không thể thay đổi số phận, nhưng vẫn kiên trì vượt qua mọi khó khăn. Hình ảnh “năm nắng, mười mưa” diễn tả thời tiết khắc nghiệt, biểu tượng cho cuộc đời đầy sóng gió, thử thách. “Dám quản công” vừa chỉ sự đảm đang, tháo vát trong việc nhà, vừa thể hiện tinh thần bền bỉ, không khuất phục nghịch cảnh của bà Tú. Qua đó, hình tượng bà Tú hiện lên vừa là người lao động cực nhọc, vừa là người mẹ, người vợ kiên cường, âm thầm hy sinh.
Đặc biệt, hai câu cuối bài thơ thể hiện nỗi lòng phẫn uất của tác giả về sự vô tình, thờ ơ của xã hội và người thân đối với người phụ nữ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Ở đây, “cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là lời phê phán thói đời vô tình, bạc bẽo, không giúp đỡ, đồng thời còn chỉ thái độ hờ hững, vô trách nhiệm của người chồng. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không chỉ phải chịu nhiều cực nhọc mà còn bị xã hội coi thường, thậm chí bị chính người thân lạnh nhạt, thờ ơ. Nỗi cô đơn, vất vả của bà Tú càng thêm rõ nét, tạo nên sự xót xa, cảm động sâu sắc trong lòng người đọc.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, mộc mạc nhưng đầy sức gợi. Các hình ảnh “thân cò”, “năm nắng mười mưa” không chỉ có tính biểu tượng cao mà còn rất chân thực, dễ đi vào lòng người. Giọng thơ vừa nhẹ nhàng, trữ tình vừa phảng phất nét trào phúng, thể hiện thái độ vừa thương cảm vừa chua chát của tác giả trước thực trạng xã hội. Điều này làm cho hình tượng bà Tú hiện lên vừa thân thương vừa có chiều sâu nhân văn.
Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ”, Trần Tế Xương đã xây dựng thành công hình tượng bà Tú – người phụ nữ lam lũ, nhọc nhằn nhưng vẫn kiên cường, chịu thương chịu khó vì gia đình. Hình tượng ấy không chỉ là biểu tượng cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn là tiếng nói cảm thông, trân trọng những hy sinh thầm lặng của phái nữ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bài thơ vừa là lời thương yêu chân thành, vừa là sự phản ánh hiện thực xã hội đầy tính nhân văn.
Liên hệ với cuộc sống hiện đại, hình ảnh bà Tú vẫn còn nguyên giá trị khi chúng ta cần trân trọng, biết ơn những người phụ nữ quanh ta – những người đã và đang âm thầm hy sinh, đóng góp cho gia đình và xã hội. Tình cảm chân thành, sự cảm thông sâu sắc trong “Thương vợ” là bài học quý giá về đạo lý yêu thương, sẻ chia trong cuộc sống.
Pingback: Phân tích văn bản Về hình tượng bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” (Chu Văn Sơn) - Theki.vn