Làm sáng tỏ nhận định: Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú.
Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về vai trò của thơ ca trong đời sống tinh thần con người: Thơ ca từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của con người, là tiếng nói của tâm hồn, giúp lưu giữ những rung động đẹp đẽ, bồi đắp tình cảm, nuôi dưỡng ước mơ và khơi gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc sống.
– Dẫn dắt đến nhận định: “Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú”.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến
– “Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo”:
- Bài thơ hay phải đem lại cái mới mẻ về nội dung: khám phá đề tài quen thuộc dưới góc nhìn riêng của tác giả.
- Độc đáo về nghệ thuật: sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, sáng tạo hình ảnh mới lạ, cấu tứ linh hoạt, nhịp điệu phù hợp.
- Thể hiện phong cách riêng không lẫn với người khác.
– “Có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú”:
- Thơ khơi gợi trí tưởng tượng, dẫn người đọc liên hệ đến những tác phẩm khác, những trải nghiệm, kỉ niệm cá nhân.
- Đánh thức rung động thẩm mỹ, cảm xúc sâu lắng trước con người và cuộc sống.
- Từ một câu thơ có thể mở rộng ra nhiều chiều liên tưởng: từ hình ảnh đến âm thanh, từ quá khứ đến hiện tại.
2. Làm rõ nhận định qua bài thơ Tây Tiến
(Chia phân tích theo từng phương diện nghệ thuật và nội dung)
a. Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Quang Dũng: nhà thơ – nghệ sĩ đa tài, phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa.
- Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến (1948): viết khi tác giả rời đơn vị Tây Tiến, nhớ lại một thời gian khổ mà hào hùng.
- Vị trí: tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Pháp với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
b. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ
- Ngôn từ giàu tính tạo hình: “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” → gợi hình ảnh núi rừng hiểm trở.
- Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, khơi dậy cảm xúc: “nhớ chơi vơi” → nỗi nhớ mênh mang.
- Kết hợp từ thuần Việt với từ Hán Việt, tạo sắc thái cổ kính mà vẫn gần gũi.
c. Sáng tạo hình ảnh thơ
- Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng thơ mộng (“hoa về trong đêm hơi”).
- Hình ảnh con người kiên cường, lãng mạn (“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” – hiện thực gian khổ mà vẫn hào hùng).
- Hình ảnh người lính gắn với lí tưởng và vẻ đẹp bi tráng (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).
d. Nhịp điệu và âm hưởng thơ
- Nhịp điệu linh hoạt: khi dồn dập (gợi sự hiểm trở, gian nan), khi chậm rãi (gợi sự lắng đọng, trữ tình).
- Vần điệu giàu nhạc tính, kết hợp chất hiện thực với cảm hứng lãng mạn.
e. Xây dựng hình tượng
- Hình tượng người lính Tây Tiến: vừa chân thực (thiếu thốn, bệnh tật) vừa lý tưởng hóa (anh hùng, hào hoa).
- Hình tượng thiên nhiên miền Tây: vừa khắc nghiệt vừa thơ mộng.
3. Liên tưởng – mở rộng từ Tây Tiến
– Gợi nhớ đến hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu): chất mộc mạc, tình đồng đội gắn bó. Liên hệ đến những câu thơ ca ngợi vẻ đẹp người lính khác, như Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) → tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ.
– Khơi gợi những cảm xúc sâu lắng:
- Tự hào về thế hệ cha anh trong kháng chiến.
- Trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa vùng cao.
- Suy ngẫm về lí tưởng sống, sự hy sinh vì Tổ quốc.
4. Đánh giá
– Đóng góp của Tây Tiến:
- Về nội dung: Khắc họa chân thực và lãng mạn hình ảnh người lính Tây Tiến, phản ánh một giai đoạn lịch sử gian khổ mà anh hùng.
- Về nghệ thuật: Sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn; ngôn ngữ, hình ảnh giàu sức gợi; cấu tứ mạch lạc.
– Bài học cho người đọc:
- Cần bồi dưỡng tâm hồn, nuôi dưỡng cảm xúc, trau dồi kiến thức để cảm nhận được chiều sâu của tác phẩm.
- Biết liên tưởng, mở rộng suy nghĩ từ trang thơ đến thực tiễn đời sống.
III. Kết bài:
– Khẳng định: Một bài thơ hay không chỉ dừng lại ở việc phô diễn tài năng ngôn từ của người nghệ sĩ, mà còn là nhịp cầu đưa tâm hồn người đọc chạm đến những miền rung cảm sâu xa, gợi mở những khoảng trời liên tưởng bất tận.
– Chính sức sống ấy giúp thơ vượt qua ranh giới của thời gian, trở thành người bạn đồng hành bền bỉ của con người trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và ý nghĩa của cuộc đời. Bởi vậy, sáng tạo nên những vần thơ độc đáo, giàu sức gợi là khát vọng và cũng là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người cầm bút; còn với người đọc, thưởng thức thơ cũng chính là nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống và tình cảm của chính mình.
Bài văn tham khảo:
Bài văn 1:
Từ lâu, thơ ca đã được coi là hình thức nghệ thuật ngôn từ giàu tính biểu cảm nhất, giữ vai trò đặc biệt trong đời sống tinh thần của con người. Aristote từng nói: “Thơ là sự bắt chước (mimesis) nhưng là bắt chước của cái khả hữu và cái nên có”. Ở Việt Nam, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam cũng khẳng định thơ là “tiếng lòng” của con người. Thơ giúp lưu giữ những rung động đẹp đẽ, bồi đắp tình cảm, nuôi dưỡng ước mơ và khơi gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc sống. Nói về giá trị của thơ, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú”. Đây là một nhận định vừa mang tính thẩm mỹ, vừa phản ánh đúng bản chất sáng tạo và tiếp nhận văn học.
Một bài thơ hay trước hết phải là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Độc đáo ở đây không chỉ nằm ở hình thức mới lạ, mà trước hết ở nội dung – cách khám phá những đề tài quen thuộc dưới góc nhìn riêng của tác giả. Đó là sự tìm tòi để mỗi câu chữ, mỗi hình ảnh đều in đậm dấu ấn cá nhân, khác biệt với bất kỳ ai khác. Về nghệ thuật, thơ hay là sự kết hợp tinh tế của ngôn từ giàu sức gợi, hình ảnh giàu sức tạo hình, nhịp điệu phù hợp với cảm xúc, cấu tứ chặt chẽ, hài hòa.
Không chỉ vậy, bài thơ hay còn có khả năng làm sống dậy những liên tưởng phong phú trong lòng người đọc. Từ một câu thơ, người đọc có thể liên hệ đến những tác phẩm khác, nhớ về những kỷ niệm, trải nghiệm cá nhân; từ một hình ảnh có thể mở ra nhiều tầng cảm xúc, từ quá khứ đến hiện tại, từ thực tại đến mơ mộng. Chính sức gợi mở này khiến bài thơ vượt qua thời gian, luôn tươi mới trong lòng độc giả.
Tinh thần ấy được thể hiện một cách trọn vẹn và giàu sức lay động trong Tây Tiến của Quang Dũng, một thi phẩm vừa mang vẻ đẹp độc đáo về nghệ thuật, vừa khơi dậy những liên tưởng bất tận nơi người đọc
Quang Dũng – nhà thơ thuộc thế hệ đầu của nền thơ kháng chiến chống Pháp – nổi bật với phong cách phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. Tây Tiến (1948) ra đời trong hoàn cảnh nhà thơ rời đơn vị cũ, viết để hoài niệm quãng đời chiến đấu gian khổ mà hào hùng. Dưới góc độ thi pháp học, Tây Tiến tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn cách mạng, kết hợp chất hiện thực với cảm hứng tráng lệ.
Trong Tây Tiến, Quang Dũng khéo léo vận dụng bút pháp tả thực đan xen với ước lệ, tượng trưng, tạo nên những câu thơ vừa chân thực vừa giàu chất mộng.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Cụm từ “nhớ chơi vơi” với âm hưởng ngân dài gợi một nỗi nhớ mênh mang, bảng lảng, như trôi giữa thực và mơ. Sự kết hợp hài hòa giữa từ thuần Việt giản dị và từ Hán Việt giàu sắc thái trang trọng không chỉ đem lại màu sắc cổ kính mà còn làm tăng nhạc tính, mở rộng sức gợi liên tưởng trong tâm trí người đọc.
Những câu thơ giàu tính tạo hình trong Tây Tiến đã khắc họa sống động vẻ hiểm trở, hùng vĩ của núi rừng miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Các từ ngữ “dốc lên khúc khuỷu”, “dốc thăm thẳm”, “súng ngửi trời” không chỉ tái hiện độ dốc dựng đứng, quanh co, mà còn mở ra một không gian trùng điệp, hun hút đến mức chạm vào tầng mây. Bút pháp kết hợp giữa tả thực và phóng đại đã tạo nên một bức tranh vừa chân thực vừa mang nét siêu thực, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc sự gian nan của chặng đường hành quân đồng thời ấn tượng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên.
Hình ảnh thiên nhiên được kiến tạo theo bút pháp lãng mạn hóa hiện thực: vừa hùng vĩ, dữ dội: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, vừa thơ mộng: “hoa về trong đêm hơi”. Các từ ngữ “dốc lên khúc khuỷu”, “dốc thăm thẳm”, “súng ngửi trời” không chỉ tái hiện độ dốc dựng đứng, quanh co, mà còn mở ra một không gian trùng điệp, hun hút đến mức chạm vào tầng mây. Bút pháp kết hợp giữa tả thực và phóng đại đã tạo nên một bức tranh vừa chân thực vừa mang nét siêu thực, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc sự gian nan của chặng đường hành quân đồng thời ấn tượng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên.
Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên qua tám câu thơ vừa chân thực, vừa lãng mạn, mang đậm màu sắc bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những chi tiết “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” phản ánh hiện thực khắc nghiệt của chiến trường miền núi – nơi bệnh sốt rét, thiếu thốn khiến hình hài người lính tiều tụy. Nhưng chính trong hoàn cảnh ấy, hình ảnh “dữ oai hùm” đã nâng tầm vẻ đẹp người lính, cho thấy sức mạnh tinh thần và khí phách hiên ngang. Đời sống nội tâm vẫn đong đầy mơ mộng, thể hiện ở “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – những giấc mơ về tình yêu và vẻ đẹp nơi hậu phương, làm dịu đi gian khổ. Hình ảnh người lính Tây Tiến được thể hiện bằng nghệ thuật đối lập giữa hiện thực khắc nghiệt và tinh thần lãng mạn, tạo ra hiệu ứng bi tráng
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Bốn câu cuối đưa hình tượng người lính vào không gian bi tráng của cái chết. “Mồ viễn xứ” gợi sự hy sinh nơi đất lạ, nhưng câu “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như lời thề hiến dâng trọn tuổi trẻ cho Tổ quốc. Đó cũng là tuyên ngôn lý tưởng, đạt đến tầm hình tượng biểu tượng cho thế hệ trẻ thời kháng chiến. Cách nói “áo bào thay chiếu” vừa hiện thực (thiếu thốn, không có manh chiếu liệm) vừa hàm chứa sắc thái sử thi (tấm áo trở thành “áo bào” của người chiến sĩ). Âm hưởng câu kết “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” như tiếng kèn truy điệu thiên nhiên dành cho người anh hùng, để lại dư vang hùng tráng, xót xa.
Nhịp thơ trong Tây Tiến được Quang Dũng tổ chức linh hoạt, khi dồn dập, gấp gáp gợi những chặng hành quân gian khổ, khi chậm rãi, trầm lắng để lắng đọng cảm xúc. Sự biến hóa ấy phản ánh quy luật của “điệu tâm hồn” – nơi thơ trở thành sự cộng hưởng hài hòa giữa nhịp điệu của ngoại cảnh và nhịp điệu nội tâm. Trên nền nhịp điệu ấy, âm hưởng chung của bài thơ là sự đan xen giữa chất hiện thực khắc nghiệt và cảm hứng lãng mạn bay bổng, tạo nên “gam màu Quang Dũng” đặc sắc, khó hòa lẫn trong thơ ca cùng thời.
Quang Dũng đã kiến tạo hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang tính điển hình – phản ánh hiện thực kháng chiến và phẩm chất anh dũng của thế hệ chiến sĩ – vừa mang tính cá thể hóa qua vẻ hào hoa, lãng mạn, tài tử. Song hành với đó là bức tranh thiên nhiên miền Tây hiện lên đa diện: dữ dội, hiểm trở nhưng cũng trữ tình, thơ mộng. Sự đối lập hài hòa này không chỉ khắc họa chân thực bối cảnh sống và chiến đấu của người lính mà còn phản ánh nét đặc trưng của thơ ca lãng mạn kháng chiến: luôn tìm thấy cái đẹp và chất thơ ngay trong gian khổ, hy sinh.
Từ Tây Tiến, độc giả có thể liên hệ đến hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) – mộc mạc, nghĩa tình, hay trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) – lạc quan, trẻ trung. Theo quan điểm liên văn bản (intertextuality), Tây Tiến tồn tại trong mạng lưới liên hệ với nhiều văn bản khác, mở ra trường liên tưởng về vẻ đẹp con người Việt Nam trong chiến tranh, về tình yêu quê hương, về lý tưởng sống cao cả.
Tây Tiến vừa khắc họa chân thực vừa lý tưởng hóa hình ảnh người lính, phản ánh một giai đoạn lịch sử oanh liệt. Về nghệ thuật, tác phẩm thể hiện thành công nguyên lý thống nhất giữa nội dung và hình thức: hình tượng giàu tính thẩm mỹ, ngôn ngữ và nhạc điệu hòa quyện, cấu tứ mạch lạc.
Đối với người đọc, theo lý thuyết tiếp nhận, quá trình thưởng thức Tây Tiến chính là quá trình “tái tạo” tác phẩm trong tâm trí mỗi cá nhân. Vì vậy, cần bồi dưỡng năng lực cảm thụ, nuôi dưỡng cảm xúc và mở rộng khả năng liên tưởng để thực sự “đồng sáng tạo” với nhà thơ.
Tóm lại, một bài thơ hay không chỉ là sản phẩm của năng lực nghệ thuật bậc thầy, mà còn là “khoảng trống thẩm mỹ” để người đọc lấp đầy bằng trải nghiệm và cảm xúc riêng. Sức sống của thơ nằm ở khả năng vượt qua ranh giới thời gian, trở thành bạn đồng hành trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và ý nghĩa của cuộc đời. Bởi vậy, sáng tạo nên những vần thơ độc đáo, giàu sức gợi là khát vọng thiêng liêng của người cầm bút; còn với người đọc, thưởng thức thơ cũng chính là hành trình tự bồi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống và tình cảm của chính mình.
Bài văn 2:
Trong tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” Nguyễn Đình Thi đã viết: Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ dừng tay trên trang sách đáng lẽ sẽ lật đi và đọc lại bài thơ, tất cả tâm hồn chúng ta đọc.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Dàn bài chi tiết:
- Mở bài:
– Tác phẩm thơ là kết tinh những rung cảm của trái tim người nghệ sỹ trước cuộc đời, là tiếng nói của tình cảm, là tấm gương của tâm hồn. Thơ tác động đến người đọc bằng tình cảm chân thành, mang đến cho người đọc những liên tưởng, tưởng tượng phong phú… Vì vậy khi đọc “một bài thơ hay ta không bao giờ đọc qua một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc”.
– Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay. Với cách nói chân tình, mộc mạc nhưng thẳm sâu triết lí, Nguyễn Duy đã khiến chúng ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ đọc bằng cả tâm hồn chúng ta.
- Thân bài:
1. Giải thích:
a. Thơ và cuộc sống :
+ Nhà thơ Sóng Hồng đã nhận định về thơ : “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”. Song ông cũng khẳng định; “Thơ biểu hiện cuộc sống một cách cao đẹp”. Thế có nghĩa thơ gốc rễ của thơ vẫn là cuộc sống.
+ Thơ tác động đến của người đọc : vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc, suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên tưởng tưởng tượng độc đáo.
+ Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, thế giới nội tâm sâu kín của con người vừa gắn với cuộc sống khách quan – chiều sâu của sự phong phú trong đời sống xã hội nên thơ có khả năng lay đông tâm hồn người đọc một cách kì diệu.
b. Một bài thơ hay và cách thưởng thức một bài thơ hay:
– Bàn về thơ hay nhà thơ Xuân diệu đã nói : “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài“. Nói thế có Nghĩa một bài thơ hay là hay từ cảm hứng sáng tác, tình ý trong thơ, đến ngôn ngữ, đến nghệ thuật biểu hiện.
– Bài thơ hay là bài thơ có sự sáng tạo độc đáo về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.
– Bài thơ hay là bài thơ có khả năng lay động, đánh thức những rung cảm sâu thẳm trong lòng người đọc ,có khả năng khơi gợi những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con người.
– Chính vẻ đẹp tình ý sâu sa, và cách biểu hiện độc đáo, sắc sảo mà mà thơ hay có sức lôi cuốn kì lạ khiến người ta không thể đọc qua một lần mà bỏ xuống được, nó khiến người ta phải dừng tay lại trên trang giấy đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại, và lần đọc lại ấy người đọc phải đọc bằng cả tâm hồn.
c. Thế nào là đọc bằng cả tâm hồn :
– Thơ là sản phẩm của cảm xúc, được viết ra bằng thứ ngôn ngữ tinh lọc, hàm súc, nhiều tầng, đẹp như hoa nhưng không dễ nhìn thấy như hoa. Vì vậy để cảm nhận hết được cái hay cái đẹp của một bài thơ ta phải “dừng tay trên trang vở đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại bài thơ, đọc bằng cả tâm hồn” như vậy ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp, cái tinh túy sâu sa, sức lan tỏa, lay động của nó.
2. Chứng minh bài thơ “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay.
– Đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn duy để có thể cảm nhận hết cái hay của bài thơ ta phải đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, cảm nhận tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương đất nước, với quá khứ, nét độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, trong nghệ thuật biểu hiện …
a. Cái hay và độc đáo của bài thơ “Ánh trăng” trước hết được thể hiện qua nghệ thuật của bài thơ :
– Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ kết hợp tự sự, miêu tả, trữ tình, bình luận rất phù hợp với mạch cảm xúc vừa kể chuyện vừa bộc lộ tình cảm: Đây là Câu chuyện về mối tình giữa người và trăng được kể với ba mốc thời gian: Một thời khó khăn, gian khổ.
+ Trăng và người gắn bó như tri kỉ; thời hòa bình về thành phố.
+ Trăng thành người dưng; khi mất điện Trăng hiện ra “im phăng phắc” khiến cho người giật mình. Chính thời gian và hoàn cảnh đã cho người đọc thấy được sự đổi thay từ tri kỉ thành người dưng, và sự đối mặt khi mất điện làm cho nhân vật rưng rưng rồi giật mình. Từ những cảm xúc, những kỉ niệm gần gũi, bình dị ấy mà nâng lên thành lẽ sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ.
– Ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc nhưng giàu hình ảnh, cô đọng, hàm súc, ý tứ sâu sa có sức quyến rũ kì lạ :
+ Giọng thơ kể chuyện nhỏ nhẹ, như là một lời tâm tình, trong đó không dùng từ nhân xưng. Nhân vật trữ tình kể chuyện nhưng trong suốt bài thơ không dùng một từ nhân xưng nào. Các câu thơ không chủ ngữ nối tiếp nhau xuất hiện trong toàn bài. Suốt các khổ thơ có một chủ thể như là vô danh đã sống, đã ngỡ, đã về thành phố, đã bật tung cửa sổ, đã ngửa mặt lên nhìn mặt. Chỉ đến dòng thơ cuối cùng mới có một từ nhân xưng. “ta”: “Ánh trăng im phăng phắc/Đủ cho ta giật mình”. Như vậy tác giả đã thành công khi để cho câu chuyện này là chuyện không phải của riêng ai. Có thể là của tôi, của bạn, của các bạn và rộng ra là của chúng ta. Vì mỗi người đều từng có quá khứ của mình.
– Nhan đề bài thơ cũng rất hay :
+ Trong bài thơ, tác giả bốn lần nhắc đến vầng trăng:
- Vầng trăng thành tri kỉ.
- Cái vầng trăng tình nghĩa.
- Vầng trăng đi qua ngõ.
- Đột ngột vầng trăng tròn.
– Đến cuối bài thơ tác giả dùng:“Ánh trăng im phăng phắc”: Ánh trăng được dùng làm nhan đề. Phải chăng, tác giả muốn đem phần tốt đẹp, phần nhân ái, thủy chung của vầng trăng tượng trưng cho ánh sáng để soi vào chỗ bóng tối, soi rọi vào sự lãng quên, vô tình trong tâm hồn con người, khiến người ta nhìn rõ mình, khiến người ta giật mình để rồi từ đó sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ dù quá khứ đó nhọc nhằn, gian khổ và trần trụi? Đấy là những nét nghệ thuật làm nên sự khác biệt và làm nên thành công của bài thơ Ánh trăng.
b. cái hay và độc đáo của bài thơ ánh trăng được thể hiện trong nội dung cảm xúc.
– Ánh trăng là bài thơ hay chứa đựng nội dung tình cảm, cảm xúc phong phú, trong đó có những lớp nghĩa hàm ẩn không dễ nhận ra :
+ Bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình của nhà thơ về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính sống gắn bó với thiên nhiên đất nước hiền hậu và bình dị.
+ Bài thơ ánh trăng chứa đựng những suy ngẫm và chiêm nghiệm của nhà thơ về những đổi thay của lòng người trước những biến thiên của cuộc sống.
+ Bài thơ ánh trăng là lời nhắc nhở người đọc về thái đọc sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với quá khứ, đặc biệt là qua khứ nhọc nhằn, gian lao.
→ Với những ý nghĩa đó bài thơ đã tác động sâu sắc đến bạn đọc bao thế hệ, khơi gợi từ tình cảm cá nhân đến cộng đồng, từ quá khứ đến hiện tại. Từ câu chuyện tâm tình giữa người và trăng mà nâng lên thành lẽ sống đẹp : Sống có nghĩa có tình, có trước có sau, ân nghĩa trọn vẹn. Vì thế mà khi đọc bài thơ ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được ta phải dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi…
- Kết bài:
– Thơ cũng như bất cứ thể loại nghệ thuật nào đều có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống. Tiếp nhận một bài thơ hay là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm để cảm nhận nó. Lúc ấy trái tim người đọc hòa cùng một nhịp với những rung cảm của nhà nghệ sỹ. Qua đó độc giả không chỉ hiểu được tấc lòng của nhà nghệ sỹ đối với cuộc đời mà còn tham gia đồng hành vào quá trình sáng tạo.
– Đọc tác phẩm văn học là ta đang được sống những cuộc đời ta chưa từng được sống và đó là cách bồi dưỡng tâm hồn tình cảm của ta thêm phong phú.