“Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc” (Tô Hoài)
Theo em, nhận xét trên có đúng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long không? Hãy phân tích truyện ngắn này để làm rõ ý kiến của em.
Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Thành Long:
- Cây bút truyện ngắn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
- Phong cách: nhẹ nhàng, giàu chất trữ tình, khai thác vẻ đẹp đời thường và tâm hồn con người.
– Giới thiệu tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa:
- Viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai.
- Ghi lại một cuộc gặp gỡ tình cờ trên đèo Sa Pa, khắc họa vẻ đẹp của những con người lặng lẽ cống hiến.
– Dẫn vào nhận định: Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long như một “trang đời” chắt lọc, với những nhận xét “nho nhỏ” mang tính nhắc khẽ.
II. Thân bài:
1. Giải thích nhận định
– “Một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra”:
- Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long thường phản ánh một lát cắt nhỏ của đời sống thực.
- Không tham vọng bao quát toàn bộ hiện thực, mà chọn lọc những chi tiết tinh chất, giàu ý nghĩa.
– “Những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc”:
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, không áp đặt.
- Gợi mở, để người đọc tự nhận ra giá trị nhân văn và triết lí sống.
2. Chứng minh qua Lặng lẽ Sa Pa
a. “Một trang đời” được chắt lọc từ hiện thực:
– Hoàn cảnh truyện: một chuyến xe lên Sa Pa, dừng lại trên đèo ít phút.
– Nhân vật trung tâm: anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn.
– Công việc:
- Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất…
- Gửi số liệu cho trung tâm dự báo khí tượng toàn quốc.
– Điều kiện sống:
- Hoàn toàn cô độc, quanh năm chỉ có thiên nhiên làm bạn.
- Vượt qua nỗi buồn bằng niềm say mê công việc, tình yêu sách và cây cối.
- Đây là một mảnh đời rất nhỏ bé, nhưng giàu ý nghĩa – tiêu biểu cho những con người thầm lặng xây dựng đất nước.
b. “Những nhận xét nho nhỏ” gửi gắm qua lời kể:
– Qua lời bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư, tác giả khéo léo truyền đến người đọc nhận xét về giá trị của sự hi sinh thầm lặng.
– Lời anh thanh niên: “Công việc của cháu đòi hỏi sự chính xác và tỉ mỉ. Nhưng cháu thấy nó đáng yêu lắm” → gợi nhắc về niềm yêu nghề và ý thức trách nhiệm.
– Chi tiết anh thanh niên tặng hoa cho cô kĩ sư, gửi trứng cho bác lái xe → “nhắc khẽ” về sự chân thành, mộc mạc, tình người ấm áp.
– Kết thúc mở, không ồn ào, để lại dư âm nhẹ nhàng: anh thanh niên trở lại với công việc, Sa Pa lại “lặng lẽ” như tên truyện.
3. Nghệ thuật làm nên “trang đời” và “lời nhắc khẽ”
– Kết cấu đơn giản: Chỉ xoay quanh một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi.
– Ngôn ngữ giàu chất trữ tình: Lời văn mộc mạc, nhiều hình ảnh gợi cảm (hoa, nắng, mây, núi).
– Miêu tả tâm lí tinh tế: Khắc họa được sự bẽn lẽn, chân thành của anh thanh niên.
– Giọng văn thủ thỉ, gần gũi: Không áp đặt, để người đọc tự rung động.
4. Khẳng định ý nghĩa nhận định
– Lặng lẽ Sa Pa tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thành Long:
- Một lát cắt nhỏ trong đời sống.
- Một chân dung đẹp của con người lao động mới.
– Lời nhắc nhẹ nhàng về lẽ sống: yêu nghề, sống có trách nhiệm và giữ cho tâm hồn thanh sạch.
III. Kết bài:
– Khẳng định: Lặng lẽ Sa Pa là minh chứng rõ nét cho nhận định trên.
-Ý nghĩa lâu bền: Dù thời gian qua đi, những “trang đời” và “lời nhắc khẽ” ấy vẫn có giá trị nuôi dưỡng tâm hồn, khích lệ con người sống đẹp hơn.
Bài văn tham khảo:
Bài văn 1:
Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Tính cách ông đằm thắm, nhẹ nhàng như những gì ông viết. Ông đưa cả cuộc sống vào những trang văn. Nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Tô Hoài có ý kiến như sau “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc”. Ý kiến ấy thật đúng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa” – một tác phẩm nhẹ nhàng, giàu chất thơ, khắc họa chân thực cuộc sống của con người ở chốn Sa Pa lặng lẽ, được Nguyễn Thành Lòng viết sau chuyến đi thực lên Lào Cai.
Lặng lẽ Sa Pa tương tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt lọc ra. Trong truyện, ta bắt gặp một trang đời, một mảng hoặc một nét của cuộc sống của miền Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ. Đó là một họa sĩ già xin anh em ở cơ quan hoãn bữa tiệc tiễn ông vé hưu để đi “thực tế” một lần cuối ở Tây Bắc trước khi nghỉ công tác. Đó là một cô kĩ sư trẻ, lẩn đầu rời Hà Nội đi nhận công tác ở Lai Châu. Đó là một anh cán bộ trẻ làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, đã mấy năm sống một mình trên đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét. Đó là người lái xe già hiếu khách, ân cần niềm nở.
Đó còn là mối thân tình giữa các con người đáng yêu, đáng mến ấy trong một lần gặp gỡ tình cờ trên một chuyến ô tô đi Tây Bắc; là mẩu chuyện lập chiến công của hai cha con anh thanh niên làm khí tượng; là việc làm thầm lặng kiên nhẫn của một ông kỉ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, của một đồng chí nghiên cứu khoa học; là việc người họa sĩ già vẽ anh thanh niên làm khí tượng nhưng anh xin ông đừng vẽ vì còn những người khác xứng đáng được vẽ hơn.
Những tình cảm ấm áp, thắt chặt tình người. Đó là việc cô kĩ sư lén gửi làm kỉ niệm chiếc khăn mùi xoa nhưng anh thanh niên làm khí tượng lại vô tình đưa trả lại. Đó là những món quà của anh thanh niên làm khí tượng (củ tam thất cho vợ bác lái xe vừa ốm dậy, làn trứng, bó hoa tiễn người họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ tiếp tục cuộc hành trình…).
Tất cả đều được chát lọc từ cuộc sống, vừa tinh tế, vừa đẹp. Đó là vẻ đẹp tâm hổn của những con người đáng yêu, đáng mến, làm việc hết mình và sống đầy tình nghĩa, không ồn ào mà thầm lặng. Những con người và việc làm đã kể ra ở trên cho ta thấy rõ điều đó.
Có một vài chi tiết tuy nhỏ nhưng lại có giá trị khắc họa sâu sắc tính cách và tôn vinh phẩm chất nhân vật, nếu không tinh thì dễ bỏ qua. Đó là hình ảnh “anh thanh niên đang nói dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối ? Vì nhác thấy người con gái nhỏ nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe ? Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hổn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài”. Đó là hình ảnh cô kĩ sư trẻ khi từ biệt: “Cô chìa tay ra cho anh nám, cẩn trọng, rõ ràng như người ta cho nhau cái gì, chứ không phải là cái bắt tay. Cô nhìn thảng vào mát anh – những người con gái sắp xa ta, biết không bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy”.
Đó là một vài nét chấm phá của cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Sa Pa qua góc nhìn của người nghệ sĩ: “Nắng bây giờ bắt đầu lan tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chi cao quá đầu. rung tít trong nắng những ngón tay bàng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đấu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng”. “Lúc bấy giờ nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bo’ hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”.
Những vẻ đẹp của tâm hồn con người và cảnh sắc thiên nhiên được tái hiện trong tác phẩm bằng một ngôn ngữ hàm súc, trong sáng, thơ mộng: “Sau hai ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên gặp lại hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hổng, phấn, tổ ong… ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng rỡ, quên mất e lệ, cô chạy đến bên người con trai đang cắt hoa. Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân : trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”. “Những cây thông… rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc…”. “Lúc bấy giờ nấng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”. Tất cả dệt nên những sắc màu tươi đẹp trong tâm hồn người đọc về một Sa Pa tuy vắng lặng nhưng ấm áp.
Lặng lẽ Sa Pa có những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc. Đó là những nhận xét nhỏ rút ra từ những sự việc, cảnh đời đã trải qua lời của người họa sĩ già nói với cô kĩ sư trẻ: “Đối với một nghệ sỉ, trong cuộc đời, có hai hôi thích nhất : đó là hồi mình còn trẻ, và hồi này của tôi. Mình có thể năng nổ đi vẽ như thời thanh niên. Mình có thêm sự chín chắn hồi ấy mình chưa có”. “Đối với một người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ một tình yêu nhiều khi lại nhẹ nhàng”.
Lời anh thanh niên làm khí tượng nói với người họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ: “Xách đèn ra vườn (để làm nhiệm vụ trong đêm), gio’ tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ : nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cứng mà lại hừng hực như cháy” khiến ta không ngừng suy nghĩ về trách nhiệm trong công việc mà chúng ta cần cố gắng hoàn thành tốt nhất trong cuộc đời mình. Anh phân trần vè công việc của mình một cách hóm hỉnh: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Con người thì ai mà chả “thèm” hở bác ? … Cháu bỗng dưng tự hỏi : cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy ? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng…”. Anh khâm phục tinh thần làm việc của đồng nghiệp: “Ông kĩ sư (ở vườn rau dưới Sa Pa) làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá”.
Từ những gì mắt thấy, tai nghe, ông họa sĩ cũng đã suy ngẫm: “Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng”. “Thanh niên bây giờ lạ thật ? Các anh chị cứ như con bướm. Mà đã mười một giờ, đến giờ “ốp” đâu ? Tại sao anh ta (anh thanh niên làm khí tượng) không tiễn mình đến tận xe nhỉ ?”.
Đối với cô gái, “những điều cô cùng nghe, cộng với những điều cô khám phá lấy trên hai trang sách hay đang đọc giở của người con trai (người thanh niên làm khí tượng) làm cô bàng hoàng… Một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ màng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Những lời nhận xét nhỏ đó như nhắc nhở người đọc hãy biết tự nhìn vào mình để sống tốt và sống đẹp hơn. (Những con người trong truyện tình cờ gặp nhau rồi lại chia tay nhau, ấy thế mà họ lại thân tình với nhau đến thế). Và nhìn vào mọi người để thấy hết vẻ đẹp trong những điều tưởng là nhỏ nhặt, dễ bỏ qua. Rồi sẽ làm gì, dù là một ý nghĩ tốt lành, một việc nhỏ, cho những người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn.
Nguyễn Thành Long đã chắt lọc từ cuộc sống tạo nên những trang viết với một vài trang đời, mảng, nét của cuộc sống đẹp một cách tinh tế và thơ mộng. Qua những trang truyện Lặng lẽ Sa Pa, người đọc thú vị và thấm thìa trước “những nhận xét nho nhỏ” của nhà văn. Mỗi người đọc tự rút ra cho mình một vài lời khuyên (lời “nhắc khẽ”) lí thú và bổ ích. Thực ra, một vài trang đời, mảng, nét của cuộc sống cùng với “những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc” ấy, tuy nhẹ nhàng mà sâu sắc, tuy nhỏ mà không nhỏ một chút nào cả. Từ những “trang đời” đẹp và thơ mộng, Lặng lẽ Sa Pa nâng cao và mở rộng tâm hổn người đọc, hãy yêu thương và sống đẹp hơn.
Bài văn 2:
Trong kho tàng văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Thành Long là một tên tuổi đặc biệt. Ông không nổi tiếng bởi những trường thiên hoành tráng hay những thiên truyện dồn dập biến cố, mà ở những truyện ngắn dung dị, nhẹ nhàng như những dòng suối trong, chắt ra từ đời sống thường nhật. Đọc Nguyễn Thành Long, ta bắt gặp một nhịp điệu văn chương khoan thai, lời văn thủ thỉ như một cuộc trò chuyện riêng. Nhà phê bình từng nhận xét: “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc.” Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa chính là minh chứng tiêu biểu, vừa phác họa một “trang đời” nhỏ bé, vừa gửi gắm những lời nhắc khẽ mà ấm áp, nhân văn.
Lặng lẽ Sa Pa được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai. Câu chuyện xoay quanh một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trên chuyến xe khách vượt đèo Sa Pa: bác lái xe, một ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và một chàng thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Bối cảnh thiên nhiên Sa Pa hiện lên thanh khiết và tĩnh mịch, nhưng chính trong sự “lặng lẽ” ấy, con người và công việc của họ mới tỏa sáng rực rỡ. Nguyễn Thành Long không kể một câu chuyện dài, không tô đậm mâu thuẫn kịch tính, chỉ chọn lọc một lát cắt của đời sống – một mảng đời nhỏ nhưng tinh chất – để từ đó khơi gợi những suy tư lớn.
Ở Lặng lẽ Sa Pa, “trang đời” mà Nguyễn Thành Long chọn là công việc và cuộc sống của anh thanh niên khí tượng. Chỉ qua vài phút dừng xe trên đỉnh Yên Sơn, hình ảnh chàng trai trẻ được phác họa trọn vẹn. Anh sống một mình trên đỉnh núi cao hơn 2600 mét, quanh năm chỉ có mây trời, cây cối và những số liệu khí tượng làm bạn. Công việc của anh tỉ mỉ, đều đặn, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối: đo gió, đo mưa, tính mây, đo chấn động mặt đất, gửi số liệu về trung tâm dự báo khí tượng. Công việc ấy tưởng chừng khô khan, cô độc, nhưng trong lời anh, nó lại “đáng yêu lắm”. Anh đã tìm thấy niềm vui, sự say mê và ý nghĩa trong từng phép đo, từng bản báo cáo. Trong khi nhiều người trẻ mơ ước những nơi sôi động, đông vui, anh lại chọn ở nơi heo hút, đối diện với cô đơn, chỉ để góp phần nhỏ bé nhưng thiết thực cho đất nước.
Nguyễn Thành Long không đưa vào truyện quá khứ đầy đủ của nhân vật, cũng không nói nhiều về hoàn cảnh gia đình. Anh thanh niên hiện lên như một “con người không tên” – không phải để làm mờ nhân vật, mà để anh trở thành biểu tượng cho bao con người đang âm thầm cống hiến ở khắp nơi. Đó chính là cách tác giả “chắt ra” một mảng đời từ hiện thực: không tham vọng bao quát, chỉ chọn phần tinh túy, đủ để lay động tâm hồn người đọc.
Nhưng nếu chỉ dừng ở việc giới thiệu một nhân vật, truyện sẽ khô khan. Nguyễn Thành Long khéo léo lồng vào những “nhận xét nho nhỏ” – những câu nói, chi tiết như lời nhắc khẽ. Đó là khi bác lái xe nói về anh thanh niên với sự tự hào, như kể về một người bạn hiếm có. Đó là khi ông họa sĩ cảm nhận “ở anh toát lên một cái gì đó khiến người ta kính trọng”. Đó là khi anh thanh niên tặng bó hoa cho cô kĩ sư, gửi ít trứng gà cho bác lái xe – những món quà chẳng đáng giá bao nhiêu nhưng chứa đầy sự chân thành, mộc mạc. Và đặc biệt, là khi anh tự nói về mình: “Sống một mình thì buồn thật, nhưng khi làm việc, khi đọc sách, khi chăm cây… thì quên hết cả.” Câu nói ấy như một lời tự nhắc nhở cho bất cứ ai: muốn vượt qua cô đơn, hãy tìm cho mình một tình yêu – có thể là công việc, là sách vở, hay bất cứ điều gì làm mình thấy sống có ý nghĩa.
Nghệ thuật của Nguyễn Thành Long ở đây nằm ở giọng kể nhẹ như sương. Không một lời ca ngợi trực tiếp, không một câu triết lí rao giảng, ông chỉ sắp đặt tình huống và để nhân vật tự bộc lộ. Chính điều đó khiến “lời nhắc khẽ” trở nên tự nhiên, thấm dần vào tâm trí người đọc. Khi khép trang sách, ta không chỉ nhớ về một anh thanh niên trên đỉnh Yên Sơn, mà còn nghĩ về bao người đang âm thầm ở những “Sa Pa” khác của đời sống – nơi chẳng mấy ai nhìn thấy, nhưng vẫn cần thiết vô cùng.
Cái “lặng lẽ” trong truyện không chỉ là nhịp sống của Sa Pa, mà còn là thái độ sống của những con người biết cống hiến mà không đòi hỏi sự ghi nhận ồn ào. Họ giống như những mạch nước ngầm, không phô trương nhưng nuôi dưỡng sự sống. Đọc Lặng lẽ Sa Pa, người ta thấy lòng mình lắng lại, muốn sống chậm hơn để nhận ra quanh mình có biết bao điều đáng quý.
Về nghệ thuật, truyện sử dụng kết cấu đơn giản – chỉ là một chuyến xe dừng lại, vài cuộc trò chuyện. Không gian hẹp nhưng giàu gợi tả: thiên nhiên Sa Pa vừa hùng vĩ vừa dịu dàng, làm nền cho con người tỏa sáng. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, nhiều hình ảnh thơ mộng: mây luồn qua khe núi, ánh nắng dát vàng, hoa dơn đỏ thắm… Những hình ảnh ấy vừa làm mềm câu chuyện, vừa ẩn dụ cho vẻ đẹp bền bỉ, tươi sáng của con người lao động. Miêu tả tâm lí được thực hiện tinh tế: sự bẽn lẽn của anh thanh niên khi nhận quà, sự vui mừng pha chút ngượng ngùng khi gặp cô kĩ sư, sự tự hào kín đáo khi nói về công việc… Tất cả đều khiến nhân vật trở nên sống động và gần gũi.
Nếu xem Lặng lẽ Sa Pa như một “trang đời”, thì đó là một trang đời được viết bằng thứ mực trong suốt, không phô trương mà thấm sâu. Nếu xem những lời trong truyện là “những nhận xét nho nhỏ”, thì đó là những lời thủ thỉ, nhẹ nhàng nhưng đủ để lay động người đọc. Nguyễn Thành Long đã thành công khi biến một cuộc gặp gỡ tưởng chừng bình thường thành một khúc ca ngợi ca những con người thầm lặng. Và điều đáng quý là, khúc ca ấy không ồn ào, không kèn trống – nó vang lên như một tiếng suối giữa núi rừng Sa Pa, trong trẻo và bền bỉ.
Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, Lặng lẽ Sa Pa vẫn giữ nguyên sức sống. Trong nhịp sống hiện đại hôm nay, khi con người dễ bị cuốn vào vòng xoáy ồn ào và áp lực, câu chuyện ấy càng có ý nghĩa. Nó nhắc ta rằng, giá trị của một đời người không nằm ở chỗ mình nổi tiếng đến đâu, mà ở chỗ mình đã sống và cống hiến ra sao. Nó cũng nhắc ta học cách lắng nghe, trân trọng những “lặng lẽ” quanh mình – có thể là một người lao công thức dậy từ 3 giờ sáng, là thầy cô âm thầm soạn bài đến khuya, là những người làm việc ở trạm biên giới xa xôi… Họ là những “anh thanh niên Sa Pa” của thời nay.
Nhận định rằng “mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời… những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc” hoàn toàn đúng. Lặng lẽ Sa Pa là một minh chứng rõ ràng: từ một tình huống nhỏ, tác giả đã khơi gợi những suy ngẫm lớn; từ một nhân vật vô danh, ông đã làm hiện lên hình ảnh bao con người thầm lặng mà cao quý. Văn chương của ông không nhằm làm ta sững sờ vì những bi kịch dữ dội, mà để ta lặng người đi vì những điều tưởng chừng giản dị nhưng vô cùng đáng trọng.
Khép lại trang sách, ta như vừa đi qua một góc đời, thấy lòng mình trong trẻo hơn, ấm áp hơn. Và trong sâu thẳm, ta nghe vang vọng một lời nhắc khẽ: “Sống sao cho có ích, dù lặng lẽ; yêu công việc mình làm, dù chẳng ai biết đến.” Có lẽ, đó chính là giá trị bền lâu nhất mà Nguyễn Thành Long gửi lại qua Lặng lẽ Sa Pa – một trang đời nhỏ bé nhưng đủ để soi sáng những bước đường dài của mỗi chúng ta.